Kí ức văn hóa và Câu chuyện thiết kế (Phần 2)

Lời mở đầu: Câu chuyện marketing của Nestlé Nhật Bản trong những năm 1970 và bí quyết dẫn đến sự thành công của thương hiệu này thông qua việc ‘tái tạo’ kí ức văn hóa như một công cụ marketing vô thức trong lòng xã hội Nhật Bản.

Phần 1– Chữ viết hay Hình ảnh, phân tích về sự khác biệt và sức mạnh lưu trữ kí ức của hai công cụ phổ biến (chữ viết và hình ảnh), trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của hình ảnh trong việc điều khiển, tuyên truyền và tái tạo kí ức tập thể.

Phần 2: Kí ức và Không gian công cộng– Giải thích mối liên hệ giữa kí ức văn hóa và kí ức về nơi chốn và đặc biệt, phân tích mối liên kết chặt chẽ giữa các không gian văn hóa công cộng đến kí ức văn hóa tập thể dưới sự chi phối và tác động của các yếu tố chính trị.

Phần 2: Sức mạnh, kí ức và không gian công cộng

Kí ức về các sự kiện và các đối tượng lịch sử có thể được giữ sống động nhờ vào sự lập lại đều đặn của quá trình tưởng niệm và thông qua việc xây dựng các đài kỉ niệm, bảo tàng, lễ diễu hành, nghi thức, tên đường, tranh graffiti và các bức tranh tường. Sự quan sát này liên hệ chặt chẽ với tâm lý học thần kinh (neuropsychology) và nó cũng dạy chúng ta rằng kí ức của những sự kiện thì hòa quyện với kí ức về nơi chốn, một sự gắn kết giúp giải thích rộng ra tại sao phần lớn các phương tiện ghi nhớ (mnemonic device) thì gắn liền với nơi chốn, không gian và các biểu hiện không gian (spatial signifier).

Mối quan hệ giữa kí ức, hình ảnh- như một dạng kí ức được mã hóa và không gian được cấu trúc đã được công nhận trong thế giới cổ đại thông qua khái niệm ars memorativa (A. Assmann, 2009, pp. 158–162, 298–339), ở đó các phương tiện ghi nhớ được dựa trên sự lặp lại (repitition), nhịp điệu (rhythm), điểm quy chiếu (reference point) và trật tự không gian (spatial ordering) (Poirion & Angelo, 1999, p. 37). Như Fiedler và Juslin (2006) đã lưu ý “Ngay cả người thông minh cũng không quá giỏi với những công việc về siêu nhận thức (metacognitive) của việc điều khiển và chỉnh sửa quy trình lấy mẫu (sampling process). Họ thông thường sử dụng những thông tin của họ như một thói quen và hiếm khi thắc mắc liệu rằng mẫu của họ có cần phải chỉnh sửa không” (p.13). Connerton (1989) và Wright (2006) cho rằng thay vì quá trình ghi nhớ của xã hội đòi hỏi một sự thực hành tưởng nhớ về mặt thân xác (a bodily practice of commemoration), thông thường là dưới hình thức biểu diễn mang tính nghi lễ (ritualized performance). Những tòa nhà, quảng trường, tượng đài và tên đường “hỗ trợ cho các hoạt động tưởng niệm bằng cách tái sản xuất và sản xuất các mối quan hệ xã hội” (Wright, 2006, p. 50). Những buổi biểu diễn và các nghi thức lặp đi lặp lại cấu thành nên ý nghĩa của nơi chốn (place), và đồng thời, đem lại ý nghĩa và cấu trúc cho hành động đó (Maran, 2006, p. 13). Những nghi lễ gắn liền với nơi chốn (place-bound ritual) và các hiện vật văn hóa (cultural artifacts) giúp làm mới những sự liên kết và hệ thống kiến thức về lịch sử, củng cố chúng trong phần nhận thức và tiềm thức trí não.

Vì những lý do này, điều mà Smith (1996) gọi là “sự phân vùng của kí ức” (territorialization of memory) (p.448) có thể tìm thấy ở hầu hết mọi nền văn hóa. Môn nghệ thuật nổi tiếng về kí ức được sử dụng bởi xã hội của thổ dân Australia được hình thành trong một vùng đất luôn có sự hấp dẫn nhờ những vật ghi nhớ bằng địa lý (geographical mnemonic) (Basso, 1996). Phần lớn những xã hội khác- cả truyền thống lẫn hiện đại- đều có những giải pháp chính quy, cả nghiêm túc lẫn giải trí, với những ngọn núi thiêng- được tin là nơi cư ngụ của các vị thần hay tổ tiên là nơi để giao tiếp với những người truyền đạo, những dòng sông linh thiêng như cội nguồn của sự tinh khiết và cả những nơi được tôn kính khác. Trên khắp thế giới, các đài kỉ niệm, tượng đài và những địa danh biểu tượng vận hành như một thiết bị lưu trữ kí ức (mnemonic device), như một cái bình chứa đựng bản sắc văn hóa và thông tin, như một kênh giao tiếp và giáo dục, như một chất xúc tác về xúc giác, cảm xúc và sự nhạy cảm, như một mỏ neo không gian cho những truyền thống lịch sử.

Nhưng kí ức thì luôn mơ hồ. Phần lớn những diễn ngôn lịch sử là tạm thời: chúng luôn được tái tạo bởi những trải nghiệm mới, kiến thức mới và được đặt trong cái trọng tâm chuyển đổi và sự bất đối xứng với quyền lực. Diễn ngôn thì tùy thuộc và lệ thuộc vào một hệ thống ý nghĩa của văn hóa cụ thể, thứ luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Như Saler (1998) đã cho thấy, diễn ngôn lịch sử tạm thời có thể cực kì khó chịu và phần lớn các thể chế chính trị luôn cố gắng bình ổn những khái niệm này: “những diễn ngôn trọng yếu (essentialist narrative) thì rất hiệu quả về mặt chính trị: chúng rõ ràng, không mơ hồ, kích thích những gắn kết về mặt cảm xúc và kích động hành động theo cách mà những diễn ngôn tạm thời (provisional narrative) không thể.”

Khi một nghiên cứu lịch sử mới đe dọa một diễn ngôn chủ đạo (predominant narrative), tầng lớp lãnh đạo (power elites) thường cố gắng chống lại những phát triển này bằng cách sửa chữa những kí ức có liên hệ đến những phiên bản được chấp nhận của những sự kiện. Những mối quan tâm được hợp thức hóa (vested interest) được khai thác tối đa để thúc đẩy phiên bản lịch sử được họ (tầng lớp lãnh đạo) yêu thích hơn cho các thế hệ tương lai.

Trên thực tế, những nơi chốn để ghi nhớ (place of remembrance) chính là những hệ thống ghi nhớ (memonic scheme) để cố định quá khứ (immobilizing the past) trong những chuỗi cố định (fixed sequences).

Những đài tưởng niệm bằng granite hoặc marble tự bản thân đã hàm ý sự tiếp nối hoặc vô tận. Biểu tượng hóa tính bất biến và một sự khép lại của lịch sử, chúng là những mỏ neo chủ đạo (prime anchor) trong sự vận động mang tính chính trị (political manipulation) của lịch sử và sự sáng tác hay tái sáng tác của những truyền thống văn hóa.

Bởi vì không gian thì không đồng nhất về mặt công năng và ý nghĩa đại diện, và bởi vì trật tự không gian và sự sắp đặt không gian hiển nhiên biểu hiện các sự phân cấp, cho nên các thể chế chính trị và các tầng lớp tinh hoa cố gắng sự kiểm soát sự phân phối của những hình ảnh biểu trưng ở những không gian công cộng. Một vài không gian thì khá rõ ràng, nổi tiếng, phổ biến hoặc mang tính biểu tượng nổi bật hơn các không gian khác.

Để cho hiệu quả, những thiết bị ghi nhớ (mnemonic device) cần phải được thiết kế đặc biệt và bố trí có chủ đích để định hướng sự chú ý của cộng đồng đến một số sự kiện và sự diễn dịch cụ thể. Đặc biệt quan trọng, chúng còn giúp ngăn ngừa các thế hệ tương lai khỏi sự ý thức về một số sự kiện lịch sự có chọn lọc. Do đó tất cả các khu tưởng niệm vừa để ghi nhớ và cũng đồng thời để lãng quên.

Cơ hội và khả năng để thu hút sự chú ý của cộng đồng về những vấn đề cụ thể, con người, đối tượng, sự kiện lịch sử hoặc nơi chốn và để làm trệch hướng của nó khỏi những thứ khác là một trong những công cụ cơ bản nhất của quyền lực quốc gia. Giống như một phân cảnh sân khấu được thiết kế tốt, một khu vực tưởng niệm thành công thường chỉ nhấn vào một số phần cụ thể của khung cảnh, bỏ lại một vài diễn viên và các sự kiện trong sự mơ hồ. Những lễ kỉ niệm 50 năm (Jubilee celebrations) và các nghi thức của sự dọa dẫm được biểu diễn ở các vị trí công cộng chính với mục đích gây ấn tượng với mọi người, đạt được sự thanh tẩy tập thể (collective catharsis), chứng minh sự ưu việt của một ý tưởng chính trị được lựa chọn, tiết lộ sự bất lực của những cá nhân hoặc nhóm, khơi gợi cảm xúc được ưu ái với những đối tượng đương quyền.

Sau khi chiếm đóng Hungary năm 1945, lực lượng Xô Viết đã chọn hai địa điểm cho những đài tưởng niệm quan trọng của họ ở Budapest là đồi Gellert (thành lũy) và Szabadsag ter (quảng trường tự do). Đối với mỗi một người Hungary ghi nhớ về lịch sử, chúng đã (và luôn là) những biểu tượng đầy sức mạnh của sự đàn áp mà họ đã trải qua trong giai đoạn Habsburg. Bức tượng người lính Xô Viết cầm cờ ở đỉnh đồi Gellert đại diện cho quyền lực, hệ tư tưởng và sự tự tin vào bản thân của một thể chế cộng sản mới và có thể được quan sát từ mọi vị trí trọng yếu thuận lợi suốt dọc toàn thành phố. Szabadság tér, quảng trường trọng yếu nhất tọa lạc ở khu trung tâm của quận thứ 5, là trung tâm truyền thống của sức mạnh chính trị và kinh tế của Hungary.

Tầm quan trọng của việc kiểm soát hình tượng và biểu tượng của các không gian công cộng là nguyên nhân chính giải thích vì sao sự đạp đổ một đế chế hay một thể chế chính trị hay sự xâm chiếm của một vùng lãnh địa mới thì gần như luôn luôn đi chung với sự xóa sổ có chủ đích những biểu tượng và hình tượng gắn liền với hệ thống cũ và sự tạo ra những cái mới thay thế ở tại vị trí đó.

Một người có thể diễn dịch toàn bộ cảnh quan văn hóa của châu Âu trên góc độ của những chu kì được thúc đẩy bởi chính trị của những sự phá hủy hay làm mới mang tính sáng tạo này, một quá trình có liên quan đến các công trình tưởng niệm, tượng đài, bảo tàng và các hình thức khác của môi trường xây dựng. Việc đặt ra những tên đường và nơi chốn mới, sự phá hủy các công trình kỷ niệm và cảnh quan, thậm chí việc khai quật những nghĩa trang của những cộng đồng bị ép rời đi hoặc bị sát hại đã và đang là một phần của những nỗ lực có tính hệ thống để tiêu hủy hoàn toàn một số sự thật cụ thể khỏi kí ức của các thế hệ tương lai.

Phần lớn các hệ thống chuyên chế sử dụng các ngôi mô vô danh tập thể để chôn giấu những nhà bất đồng chính kiến (dissidents) bị xử tử hoặc những đối tượng bị giết hại trong quá trình thanh tẩy chủng tộc (ethnic cleansing). Những người bị giết hại bị tước bỏ tên và nhận dạng. Những nấm mồ được chôn cất của họ bị giữ kín để ngăn không cho những địa danh này trở thành những khu tưởng niệm trong tương lai. Thực tế, các thể chế không cần đến những cái chết như thế này góp công trong việc tạo ra những bí ẩn về những quá khứ hay hiện tại lịch sử chưa được ghi chép.

Chủ nghĩa phát xít ở Italy đã mở một khu tưởng niệm chiến tranh ở khu vực Nam Tyrol (ví dụ như gần Mals ở Vinschgau và ở thung lũng Eisack gần Bozen) để chứng mình cho các người dân địa phương ở đây rằng họ đã bị chiếm đóng trong chiến tranh, ngay cả khi không bất kỳ một hành động quân sự nào thực sự diễn ra ở khu vực đó trong Chiến tranh Thế giới lần 1. Bằng cách đề tên của những quân nhân đã “hy sinh” trong cuộc chiến lên bề mặt của những ngôi mộ tưởng niệm này, chế độ này đã cố tình đưa ra một sự công nhận và thừa nhận với vùng đất đó và ẩn ý rằng máu của các quân nhân Italy đã đổ ra trong một cuộc tranh chấp quốc gia ở chính địa danh trên. Những ngày sinh bị xóa bỏ để ngăn không cho những người quan sát truy tìm tính chân thật của những tuyên bố này. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên chú ý rằng, những thể chế dân chủ cũng cố gắng che dấu vết tích của hành động của họ. Người ta nói rằng Quốc hội Mỹ đã đồng ý san bằng nhà tù Abu Ghraib ở Iraq vào tháng Năm 2004 và thay thế nó bằng một tòa nhà mới.

Định vị kí ức

Tác động của một công trình kỷ niệm lên cảm xúc hoặc quá trình nhận thức phụ thuộc không chỉ vào hình thức nghệ thuật của nó hay kiến thức có sẵn của người quan sát mà còn là sự nổi trội mang tính biểu tượng của vị trí đó và môi trường hay những sắp đặt kiến trúc nơi mà nó được đặt để. Thông điệp được gửi gắm của một khu tưởng niệm có thể thay đổi hoàn toàn, hay thậm chí bị đảo ngược nếu những sắp đặt môi trường (environmental setting) được thay thế, ví dụ như bằng việc kéo gần khoảng cách với một đài tưởng niệm mang một thông điệp khác vừa bị xóa bỏ hay bằng việc di dời đài tưởng niệm gốc.

Những nhà thiết kế đài kỷ niệm thường phải đối mặt với vấn đề về thông điệp tuyên truyền mà họ gửi gắm bị thay đổi theo thời gian. Một ví dụ điển hình là đài kỷ niệm cho sự kiện “ Giải phóng Budapest của Liên bang Xô Viết” ở Szabadság tér, Budapest, nằm đối diện trực tiếp với tòa đại sứ Hoa Kỳ. Chính phủ Hungary hậu cộng sản đã chính thức công nhận rằng đài kỷ niệm Xô Viết này không nên bị di dời, nhưng đồng thời nó vẫn là một chủ đề gây tranh cãi trong cộng đồng dân cư địa phương và bị phá hoại nhiều lần. Những trường hợp này đòi hỏi một kết cấu được rào lại bên trong các hàng rào bảo vệ và thỉnh thoảng triển khai canh gác ở đó. Rõ ràng là những giải pháp này đã làm suy yếu đi thông điệp gốc, thứ mà sau này càng bị xói mòn vì bị che chắn khỏi tầm nhìn so với một đài kỷ niệm mới vinh danh Imre Nagy, thủ lĩnh của phong trào cách mạng 1956, người đã bị xử tử bởi chế độ cộng sản. Tấm lưng của Nagy xoay về phía đài kỉ niệm Xô Viết, nhìn về phía hai biểu tượng của phong trào giải phóng, tòa nghị viện Hungary và quảng trường Kossuth, nơi diễn ra những cuộc biểu tình quy mô rất lớn năm 1956 và 1989 để đòi hỏi thêm quyền tự do và dân chủ, đồng thời cũng là nơi những cảnh sát chìm đã bắn vào những người biểu tình Hungary năm 1956.

Việc di dời thay vì dễ dàng phá hủy những bức tượng được xây dựng bởi chế độ bị xem thường trước đó cho thấy một sự khoan dung nhất định và khoảng cách lịch sử với những kẻ thù trước. Nhưng chiến lược này có thể tiềm ẩn những hậu quả không lường trước, thay đổi ý nghĩa của địa điểm đầu tiên và cái mới, đối với họ, đều tiết lộ rất nhiều về tình trạng mà giới cầm quyền hiện tại chấp thuận cái thông điệp ban đầu của đài tưởng niệm đó. Việc di chuyển những bức tượng hoặc bảo tàng từ một khu vực ngoại ô đến những vị trí trung tâm nổi tiếng cho thấy một sự trân trọng được củng cố. Một ví dụ điển hình là quyết định di dời bảo tàng của người bản địa Mỹ (American Indian) từ vị trí ban đầu ở trụ sở chính ở New York, số 155 và Broadway- ở phía bắc Manhattan, xa khỏi khu vực khách du lịch- đến một địa chỉ ở khu trung tâm, George Gustav Heye năm 1994. 10 năm sau, nó lại được di dời vào trung tâm của hệ thống bảo tàng quốc gia tại National Mall ở Washington DC, ở giữa Bảo tàng Không gian và tòa nhà US Capitol.

Ngược lại, di chuyển một đối tượng mang tính biểu tượng cao từ một khu tâm nổi tiếng đến vùng ngoại ô của một thành phố là dấu hiệu của việc chối bỏ ý nghĩa ban đầu của chúng, ngay cả khi việc di dời nhằm bảo vệ chúng khỏi bị phá bỏ. Sau sự rút quân của quân đội Xô Viết vào tháng 6 năm 1991, đã có một cuộc tranh luận công khai gay gắt ở Hungary về việc nên làm gì với những bức tượng và đài kỉ niệm tôn vinh văn hóa tư tưởng và chính trị của hệ thống chủ nghĩa cộng sản. Phản ứng đầu tiên của phần lớn người Hungary là muốn phá bỏ những dấu ấn của chế độ chuyên chế không được ủng hộ. Mọi người đồng ý rộng rãi rằng những tác phẩm đã được đặt ở những quảng trường và thành phố bởi một hệ thống đàn áp của chủ nghĩa Stalin đi ngược lại với mong muốn của người dân Hungary.

Tuy nhiên những chính sách bài trừ tôn giáo cực đoan có thể gây ra những xung đột mới và những đứt gãy xã hội trong lòng xã hội Hungary. Do đó, Hội đồng Budapest cuối cùng đã cho phép mỗi quận của Budapest tự quyết định số phận của những bức tượng trong quyền hạn của họ. Khi ý tưởng về một “Công viên tượng” được lần đầu thông qua, cả nhóm cánh tả- cánh hữu đều biểu tình và không có bất kỳ quận nào của Budapest tình nguyện cung cấp đất cho những bức tượng đó. Cuối cùng, Tétényi, một khu quân sự cũ tọa lạc ở rìa xa nhất của quận 22 của thành phố được lựa chọn cho phần lớn những bức tượng chính. Tháng 7 năm 1993, hai năm sau sự rút quân của Liên Xô, vùng đất nay thuộc về Bộ Quốc Phòng Hungary đã khánh thành một bảo tàng công cộng ngoài trời. Vị trí mới của những đài kỉ niệm thời kì Xô Viết, tuy nhiên, đã ẩn chứa cả sự khinh thị chính trị cho chế độ cũ và khao khát giới hạn 42 bức tượng mang đầy tính chính trị vào một khu vực nhỏ bé, nơi đã thấm đẫm cảm xúc hệ tư tưởng gần như là một truyện tranh hay kitsch.

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/phan-2-ki-uc-van-hoa-va-khong-gian-cong-cong/

Peter Meusburger, Michael Heffernan và Edgar Wunder (2011), Cultural Memories- The Geographical point of view, Springer Publisher.

2 thoughts on “Kí ức văn hóa và Câu chuyện thiết kế (Phần 2)

  1. Pingback: Kí ức văn hóa và Câu chuyện thiết kế (Lời giới thiệu) | | Splace

  2. Pingback: Kí ức văn hóa và Câu chuyện thiết kế (Phần 1) | | Splace

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.