Lời giới thiệu: Giới thiêu sơ lược về bối cảnh, tác giả và nội dung sách
Chương 1: Sự tìm kiếm những không gian cư ngụ (The Search for Shelter)
Chương 3: Bên trong (Inside)

Chương 2: Tồn Tại (Being)
Shashi Caan cho rằng thiết kế không gian nội thất chính là lĩnh vực thiết kế có mối liên hệ trực tiếp và gần gũi nhất đến bản chất của con người so với tất cả những lĩnh vực khác. Trong bối cảnh thế kỉ 21, khi thiết kế có xu hướng ngày càng bành trướng về kích thước, hướng đến những siêu cấu trúc (megastructure) như một giải pháp cho những vấn đề xã hội và phát triển bền vững thì nhà thiết kế nội thất nên là người tiên phong trong việc khám phá những tiêu chuẩn mới cho thiết kế nói chung, xuất phát từ nội tại thay vì ngoại cảnh như hiện nay (working from inside out). Đăc biệt, những tiêu chuẩn mới này phải lấy nhu cầu tinh thần của con người làm trọng tâm:
“Những ngôn ngữ giao tiếp và thị giác hiện nay của chúng ta đã bộc lộ sự giới hạn về khả năng đáp ứng những yêu cầu về chất lượng của không gian nội thất. Thuật ngữ “thiết kế” thì đặc biệt mang tính ứng dụng (nó bao gồm hàm ý về công năng, giao thông và hệ thống hóa những quy định về an toàn vật lý) nhưng chính những khái niệm này lại không thể miêu tả sự tương tác có chủ đích về mặt cảm xúc (intentional emotive interplay) giữa con người, vật thể và môi trường. Sự tác động qua lại này là cần thiết để kích thích những ý thức và hành động cao cả, và đồng thời kiến tạo nên những môi trường mà, ví dụ như, có thể đem đến cảm giác về sự thanh cao, củng cố sự tin tưởng mạnh mẽ hơn như một sản phẩm của quá trính thiết kế.
Phần lớn các lý thuyết kiến trúc đang cố gắng cắt giảm những ý tưởng triết học (philosophical concept) của không gian, sự hài hòa và cân bằng thành những tiêu chuẩn nghệ thuật mang tính hình thức. Đồng thời chúng cũng phác họa hình ảnh con người điển hình trong những công trình như một sự trừu tượng hóa vô hồn (lifeless abstraction), đóng một vai trò gần như thứ yếu trong quá trình thiết kế. Nếu như chúng ta muốn đạt được một phương pháp thiết kế tốt hơn, thì chúng ta phải nhanh chóng tạo ra một phương pháp chính xác hơn trong việc xác định rõ sức mạnh về mặt cảm xúc của việc thiết kế.
Trong một khoảng thời gian rất dài, những nhà thiết kế, trong tất cả mọi lĩnh vực, đã tránh né việc đào sâu một cách nghiêm túc vào những góc độ hiện tượng học (phenomenological aspect) của thiết kế. Chúng ta đang đơn giản hóa sự tồn tại của chúng ta và nghĩ về loài người như những khái niệm toàn thể (universal terms), với một mẫu số chung (common denominator) cho nhu cầu của tất cả mọi người.” (Caan, 2001 p.554)
Con người chính là sự kết nối giữa thế giới vật chất hữu hình bên ngoài và thế giới nhận thức bên trong chính chúng ta thông qua sự hoạt động của não bộ và các giác quan. Nói cách khác, “thiết kế chính là sự chiêm nghiệm giữa một trải nghiệm “nội thất” (bên trong không gian và cả bên trong chính chúng ta) với thế giới bên ngoài”. (Caan, 2001 p.583) Do đó, các không gian nội thất không chỉ đơn thuần là nơi diễn ra các tương tác vật lý mà còn đem đến những tác đông đáng kể về mặt tâm lý và cảm xúc. Thông qua những giá trị phi vật chất đó, không gian nội thất được định nghĩa như một lớp da thứ hai của con người– a second skin, lớp da giúp định hình chính con người chúng ta và cách chúng ta tiếp nhận thế giới xung quanh:
“mặc dù nó nằm bên ngoài những giới hạn vật lý của cơ thể chúng ta, làn da thứ hai này lại đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc xác định chúng ta là ai và cách chúng ta nhận thức. Do đó, đặc tính của con người được mở rộng ra khỏi phạm vi vật lý của chúng ta. Thiết kế là một không gian chuyển tiếp nằm giữa làn da và những thứ bên ngoài. Chính vì thế mà nó (không gian nội thất) là một phần nối dài của chính bản thân chúng ta.” (Caan, 2001 p.608)

Không gian chính là sự phản chiếu của ý thức con người lên thế giới vật chất trên góc độ triết học. H.Van der Laan, tác giả của cuốn sách Không gian kiến trúc: 50 bài học về sự sắp đặt của thói quen của con người, đã khắc họa khái niệm về không gian như một sự đối lập của những khoảng rỗng ẩn dụ (metaphorical void- những không gian được tạo thành từ không gian tự nhiên khi con người xây dựng) và khoảng đặc ẩn dụ (metaphorical solid- cách thức mà chúng ta trải nghiệm những không gian xây dựng). Ông cho rằng việc xây dựng những bức tường khép kín đã xâm phạm vào tính toàn thể (completeness) của không gian tự nhiên. Không gian xây dựng đó được xem như một khối đặc (fullness) bao bọc bởi một sự trống rỗng (emptiness), hay nói cách khác, hành động kiến tạo không gian chính là hình ảnh của những khối đặc bao quanh một sự trống rỗng và sự trải nghiệm không gian chính là cảm giác đứng giữa sự trống rỗng đó. Thông qua dẫn chứng này, Shashi Caan chỉ ra rằng ngay cả với những lý luận không gian lấy xuất phát điểm từ bên trong nhận thức con người rồi phóng chiếu ra thế giới bên ngoài, thì vai trò của con người vẫn bị xem như một thực thể trừu tượng không hề có sự kết nối vật lý đến thế giới bên ngoài. Không gian luôn là một khái niệm trừu tượng, không mang tính cư ngụ (habitable) và thiếu vắng sự kết nối với con người với các hoạt động của họ.
Từ đó, Shashi Caan đã xem xét lại định nghĩa và giới hạn của các không gian giao tiếp (proxemics) mà Edward T.Hall, cha đẻ của các nghiên cứu nhân chủng học trong không gian con người, tác giả của cuốn sách kiến trúc kinh điển Khoảng cách vô hình (The Hidden Dimension) đã đề xuất. Theo Edward, không gian giao tiếp có thể chia thành 4 phạm vi dựa trên khoảng cách:
- Không gian thân mật (Intimate space): từ những tiếp xúc trực tiếp cho đến những tiếp xúc cách xa 45cm
- Không gian cá nhân (Personal space): một khu vực trong khoảng từ 45cm đến 1.2m
- Khoảng cách xã hội (Social distance): một khu vực trong khoảng từ 1.2m đến 3.6m
- Không gian công cộng (Public space): một khu vực trong khoảng từ 3.6m đến 7.6m

Thế nhưng, với quan điểm lấy con người làm trọng tâm trong không gian (a human-oriented vision of space), Shashi Caan cho rằng sự trải nghiệm không gian nội thất không nên dựa trên những vách ngăn vật lý (ví dụ như hành động bước vào từ bên ngoài) mà xuất phát từ chính bên trong con người và bao gồm những thứ xung quanh có mối liên hệ với cơ thể con người:
“Cuối cùng thì, không gian cá nhân không phải là câu hỏi về cách chúng ta nhận thức các điều kiện xung quanh mà hơn cả chính là cách mà chúng ta biểu hiện bản thân thông qua một bối cảnh không gian.” (Caan, 2001 p.716)
Nếu một không gian kiến trúc là thứ cố định, không thể di chuyển thì trang thiết bị nội thất (furniture) được xem như một sự nối dài của chính cơ thể con người (extension of self). Do đó, chúng nên được thiết kế để có thể thích nghi và linh hoạt với các nhu cầu của con người. Trong thiết kế nội thất luôn tồn tại hai vấn đề: công năng và phong cách, đặc biệt là với trang thiết bị nội thất. Chúng ta nên nhớ rằng, trải nghiệm không gian nội thất luôn đòi hỏi sự tham gia của nhiều hơn một giác quan (thị giác). Mùi hương, âm thanh, nhiệt độ, xúc giác đều có tác động đến sự nhận thức về không gian của con người.
Thế nhưng ngày nay, có rất nhiều xu hướng thiết kế (design trend) được định nghĩa chỉ bằng một bức ảnh sắp đặt như một kiểu hoán dụ (metonym) cho toàn bộ xu hướng. Và chúng ta đang định nghĩa sức nặng và giá trị của những không gian thiết kế thông qua những hình ảnh vô hồn trên tạp chí hay truyền hình. Xu hướng này là cưc kỳ đáng báo động vì chúng đang gạt bỏ vai trò của con người trong thiết kế để tạo ra những lớp vỏ thời thượng nhưng vô cảm.

Con người là thước đo của vạn vật (Man is the measure of all things). Tuy nhiên, quan niệm truyền thống – vai trò của con người trong môi trường xây dựng thể hiện qua mối tương quan giữa tỉ lệ cơ thể con người lên các chỉ số đo lường- chỉ nói lên một phần nhỏ của vấn đề:
“Những số đo vật lý là, và sẽ luôn là, chưa hoàn chỉnh. Sự kết nối giữa con người với môi trường xây dựng- nếu xét rộng ra khỏi phạm vi thuần vật lý, thì vẫn chưa được hề khai phá. Khi được công nhận, những tiêu chí (thiết kế) thông qua quá trình trải nghiệm sẽ cấu thành nên thước đo hoàn chỉnh về đàn ông và phụ nữ” (Caan, 2001 p.929)
Sự thoải mái (comfort) là một trong số những nhu cầu của con người được chia sẻ rộng rãi ở cả góc độ cá nhân lẫn tập thể. Cũng như các yếu tố khác của thiết kế, sự thoải mái bao gồm 2 tầng lớp ý nghĩa: phần nội hàm (internal meaning) được trải nghiệm bởi cá nhân trong khi phần ngoại cảnh được thể hiện thông qua các dữ liệu, phương pháp đo lường. Do đó, một người thiết kế giỏi phải nắm bắt được phần ý nghĩa nội hàm bên trong sự thoải mái để từ đó phát triển nên lớp nghĩa bên ngoài. Sự thoải mái không phải một phát minh mới mà chỉ đơn thuần là việc gọi tên một số cảm xúc có sẵn:
“những yếu tố chất lượng của sự thoải mái thường được trích dẫn nhưng ít khi được thực hành. Chúng ta có thể biết rằng ánh sáng không chỉ là nhu cầu cần thiết mà còn là chất xúc tác của cảm xúc (emotional trigger), và một không gian yên tĩnh có thể thúc đẩy những biểu hiện tích cực ở con người, nhưng chúng ta thường xuyên bỏ qua những kiến thức này khi bắt tay vào thiết kế.” (Caan, 2001 p.1024)
Những nhu cầu cơ bản nhất của con người là những nhu cầu đặc trưng nhất cho mỗi cá thế. Sự riêng tư (privacy) là một khái niệm linh hoạt mà theo nhiều nghiên cứu cho thấy, nó bị chi phối mạnh mẽ và sâu sắc nhất không phải bởi nhu cầu con người nói chung mà bởi sự ảnh hưởng của văn hóa:
“sự riêng tư chính là sự chia cách giữa nội tại của con người với sự tồn tại của họ bên ngoài ranh giới của ý thức và cơ thể. Nhận thức của cá nhân về chính bản thân họ, sự trải nghiệm của tính riêng tư có thể xảy ra ở bất kỳ không gian thiết kế nào, không chỉ riêng nhà ở…có những ý kiến truyền thống cho rằng sự riêng tư cao nhất của không gian nội thất thì chỉ có thể xuất hiện trong những không gian cá nhân (domestic space)” (Caan, 2001 p.1146)
Bản chất của con người luôn tồn tại tính hai mặt (duality), bao gồm những cặp đối lập tương phản (ví dụ như sự riêng tư và tập thể). Trong các ngành giáo dục về nghệ thuật và thiết kế, những yếu tố tương phản này lại chỉ thường được xem xét, thảo luận dựa trên góc độ thị giác mà hiếm khi được nhìn nhận như một nhân tố quan trọng giúp duy trì sự cân bằng bền vững.
Đích đến cuối cùng trong thiết kế chính là sự hạnh phúc của con người (well-being). Để đạt được mục tiêu này, một thiết kế không thể chỉ dựa trên các yếu tố nghệ thuật thị giác mà còn phải được xây dựng dựa trên những tiêu chí phi vật thể, giúp xác định nơi chốn của mỗi cá nhân trong thế giới rộng lớn này. Tuy nhiên rõ ràng là phần lớn thiết kế ngày nay khi bị chi phối bởi những hình thức cứng nhắc hoặc các xu hướng về mặt thị giác đều không đạt được tiêu chí đó. Những thiết kế này được tạo ra để tôn vinh những vẻ đẹp vô hồn thay vì sự cư ngụ của con người bên trong đó.
Để đạt được sự hạnh phúc, một thiết kế phải đạt được hai mức độ khác nhau: đầu tiên là tạo ra một khu vực thoải mái thông qua các tiêu chí cụ thể như ánh sáng, nhiệt độ, kích thước, tỉ lệ, màu sắc và vật liệu. Thứ hai, lấp đầy vào không gian đó sự đam mê, cảm hứng, những yếu tố tinh thần cần thiết cho sự hạnh phúc của con người. Nói cách khác, một không gian thiết kế đúng nghĩa sẽ thúc đẩy sự thăng hoa của con người theo cách riêng của chính họ. Do đó, sự hạnh phúc, bên cạnh sức khỏe, an toàn, bảo vệ phải được xem xét như một tiêu chí bắt buộc trong danh sách tiêu chuẩn thiết kế chuyên nghiệp:
“Thiết kế chính là nỗ lực để kéo gần khoảng cách giữa việc chúng ta là ai với con người mà chúng ta khao khát trở thành.” Design is the attempt to bridge the gap between who we are and who we aspire to be” (Caan, 2001 p.1190)
(Còn tiếp)
Dịch và tổng hợp: Lipv
Nguồn tham khảo:
Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t02-3-shashi-caan-tu-duy-lai-ve-thiet-ke-va-noi-that/5/
Caan, S. (2011) Rethinking Design and Interiors- Human beings in the built environment. London: Laurence King Publishing Ltd
Pingback: Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất (Lời giới thiệu) | | Splace
Pingback: Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất (Chương 3) | | Splace
Pingback: Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất (Chương 1) | | Splace
Pingback: Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất | | Splace