Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Di sản và Di sản hóa là gì?
Phần 3: Ý nghĩa và việc sử dụng di sản vào đầu và giai đoạn Phong kiến Trung Hoa cho đến thế kỉ 20
Phần 4: Sự bảo tồn di sản và Quốc gia Dân tộc Hiện đại (Modern Nation State) ở Trung Quốc
Phần 5: Nội dung chính và giá trị đóng góp của cuốn sách này
Phần 5: Nội dung chính và giá trị đóng góp của cuốn sách này
Từ góc độ quốc gia, di sản trong thời kì Trung Quốc đương đại được xem như một phương tiện để tái xây dựng những giá trị đạo đức và là công cụ để trau dồi bản sắc chung của quốc gia (shared national identity) trước tình trạng bất mãn đang lan rộng đối với chủ nghĩa Marx và sự hoài nghi về Đảng Công Sản (Madsen 2014). Đặt trong bối cảnh lịch sử đã được tóm lược phía trên, cuốn sách này hướng sự chú ý vào những cách thức mà những diễn ngôn lịch sử thanh tẩy (sanitized historical discourse) (được kiểm duyệt chặt chẽ và là những tự sự có chọn lọc về quá khứ) về sự hoài niệm và di sản được sử dụng để gieo mầm một dạng chủ nghĩa dân tộc văn hóa (cultural nationalism) bằng cách (tái) khẳng định những bản sắc của quá khứ. Bằng cách này, những diễn ngôn này có thể được hiểu như một dạng công cụ của quyền lực/kiến thức và sự cai trị (Foucault 1991; Johnson 2016; Wu & Hou 2015), và cách chúng có thể được sử dụng để khẳng định uy quyền chính trị bởi các lãnh đạo trên mọi cấp độ. Theo đó, các chương trong cuốn sách này sẽ trình bày những case studies đa dạng để khắc họa cách thức những phiên bản khác nhau của quá khứ được chọn lọc, (tái) tạo, truyền bá và tiêu thụ cho muc đích đương đại. Mỗi chương sách đều đặt ra những câu hỏi đương thời về: khía cạnh nào của quá khứ được bao gồm trong những tự sự này, quá khức của ai được (tái) trình bày và nhằm mục đích gì, những đối tượng liên quan là ai, và bằng cách nào khái niệm của Trung Quốc về di sản có thể định hướng quá trình tái tạo này? Cuối cùng, họ cũng đặt ra câu hỏi về ý nghĩa của những điều trên trong việc tạo ra nơi chốn (place-making) và việc bảo tồn môi trường xây dựng và tác động của việc tiêu thụ những hình thức tiệt trùng của di sản (sanitized form of heritage) đối với Trung Quốc cũng như phần lại của thế giới là gì?
Bằng cách đặt ra những câu hỏi trên, những chương trong cuốn sách này khám phá những chiến lược của việc quản lý di sản văn hóa mà những lãnh đạo chính trị ở Trung Quốc và những nơi khác sử dụng để trình diễn bản sắc dân tộc của họ (national identities) trên sân khấu quốc tế. Thực tế, ngày càng có nhiều sự công nhận cho rằng di sản văn hóa tập thể (shared cultural heritage) có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc quảng bá sự hợp tác quốc tế, và đồng thời củng cố danh tiếng toàn cầu của một quốc gia (a nation’s global reputation) (Winter 2015). Trong khi những giá trị của văn hóa, khoa học và giáo dục đã được xem như những tiêu chí thiết yếu cho sự thành công, sự văn minh và phát triển của các quốc gia, thì việc sử dụng di sản như một công cụ để quảng bá cho những thành tựu này đã trở thành một chiến lược chính trị đương đại phổ biến (Winter 2014a).Các học giả như Nye (2004) liên hệ điều này như một chiến lược ngoại giao của “quyền lực mềm” (soft power), cho rằng Trung Quốc và các quốc gia khác đầu tư vào việc củng cố quyền lực của quốc gia họ nhằm đạt được những mục đích dân tộc to lớn hơn, bao gồm an ninh quốc gia (national security) và duy trì hòa bình (peacekeeping). Robert Albro (2012) miêu tả điều này như một dạng “trình diễn văn hóa” (cultural display) và Winter (2014a: 335) giải thích rằng những trình diễn văn hóa này được sử dụng để “truyền đạt sự thu hút (affinities), sự gắn kết (bonds), đối thoại (dialogues), sự phụ thuộc (mutuality), và những giá trị khác trong lĩnh vực ngoai giao quốc tế”.
Đồng thời, những phức tạp nảy sinh trong việc khẳng định chủ quyền dân tộc (nationalistic assertion) về quyền sở hữu di sản văn hóa (cultural heritage ownership) trong bối cảnh quốc tế cũng đã được bộc lộ. Ví dụ như trong sự kiện “Zodiac Saga” liên quan tới những đòi hỏi của Trung Quốc về việc trao trả những bức tượng con giáp mạ đồng bị đánh cắp sau sự sụp đổ của Viên Minh Viên (Summer Palace) ở Bắc Kinh năm 1860 (Fotopoulos 2015). Điều mỉa mai ở đây là những bức tượng này do Châu Âu sản xuất nhưng lại bắt chước phong cách Trung Quốc, được trưng bày trong cung điện của Trung Quốc và sau đó bị cướp đi gián tiếp bởi người Châu Âu. Vào đầu thế kỉ 21 khi mà những món đồ này bắt đầu xuất hiện thị trường nghệ thuật quốc tế, chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu phải trao trả chúng như một phần của di sản văn hóa bị cướp đi bởi người Châu Âu. Dựa vào lai lịch đầy nghi vấn của những món đồ được xem như “của Trung Quốc” này, sự khẳng định về chúng một phần của di sản văn hóa Trung Quốc thì có mục đích như một tự sự ẩn dụ (rhetorical narrative) về sự sỉ nhục quốc gia (national humiliation) hơn là một tài sản văn hóa có thể thẩm tra (verifiable cultural patrimony) (Fiskesjö 2010).
Những chương sách được trình bày ở đây đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ của những tài liệu về lời kêu gọi của Trung Quốc đối với sự bóc trần của các giá trị truyền thống của họ và di sản văn hóa sau khi giơ cao khẩu hiệu về kinh tế toàn cầu, ví dụ như những gợi ý về khía cạnh chính trị văn hóa của “Zodiac Saga”. Tương tự, trong khi Winter (2014a: 326), phác thảo trong cuốn sách gần đây của Natsuko Akagawa (2014) để giải thích về phương pháp mà Nhật Bản đang sử dụng việc trình diễn văn hóa như một cách tận dụng chính sách đối ngoại được xây dựng trên “các diễn ngôn về hòa bình” (narrative of peace), những nhà nghiên cứu khác cũng cho rằng Trung Quốc đang củng cố và đầu tư vào di sản với mục đích ngoại giao quốc tế. Kể từ sự tái trỗi dậy của những mối quan tâm về di sản quốc gia năm trong những năm 1980 theo sau sự phá hủy trên diện rộng của những địa điểm lịch sử, đăc biệt là trong thời kì Cách mạng Văn hóa, di sản đã được liên kết chặt chẽ với chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và được định hình bởi khao khát được khôi phục ý nghĩa quan trọng về vị thế lịch sử của nền văn mình “vĩ đại” Trung Hoa. Nói cách khác, Trung Quốc khao khát khắc họa bản thân với bên ngoài như một quốc gia với một quá khứ có bề dày văn hóa và như một nền văn minh có sức ảnh hưởng lên các quốc gia và những nền văn hóa khác (Winter 2014a: 328). Những tuyên bố này được củng cố bởi bằng chứng cho thấy Trung Quốc thúc đẩy các nỗ lực ngoại giao di sản (heritage diplomacy effort)” (Svensson & Maags 2018: 17; Winter 2015), bao gồm việc chủ động tham gia của họ từ những năm 1980 với sự khởi xướng của UNESCO World Heritage. Quá trình sản xuất di sản (heritage- making) được sử dụng như một công cụ để củng cố quyền lực mềm và thông qua đó bản sắc hiện đại (modern identities) có thể được nhào nặn, diễn dịch và tiêu thụ.
Những chương trong cuốn sách này là kết quả của một hội nghị chuyên đề quốc tế về di sản được tổ chức vào tháng 4 năm 2016 ở Tô Châu (Suzhou), tỉnh Giang Tô (Jiangsu), Trung Quốc. Sự kết hợp của các chuyên gia từ các chuyên ngành về lịch sử, nhân chủng học, dân tộc học, quy hoạch đô thị và thiết kế, chính trị, lý thuyết phản biện, văn học và văn hóa thị giác tạo nên một góc nhìn đa ngành sống động về diễn ngôn và thực hành di sản ở Trung Quốc, cho phép một góc nhìn đầy sắc thái và rõ ràng về chủ đề phức tạp này. Những bài viết được mời xoay quanh 3 chủ đề chính: “Những tự sự được thanh trùng (Sanitized Narrative) của di sản”, “Chính trị về di sản”, “Qúa trình thương mại hóa (Commodification) của di sản”. Những bài viết này được lựa chọn dựa trên sự phù hợp với những chủ đề trên, cùng với những đóng góp về lý luận và đặt trong một bối cảnh nghiên cứu rộng lớn hơn.
Phần 1 nói về những quá trình tái cấu trúc, tái tạo và đại diện của di sản ở những bối cảnh khác nhau. Trong Chương 1, Florence Graezer Bideau (Ecole Polytechnique Fédérale de Lausanne, Switzerland) trình bày một sự giới thiệu mang tính khái niệm tới nhiều vấn đề được đề cập trong suốt cuốn sách. Bà sử dụng góc nhìn chuyên môn của nhân chủng học để tập trung vào 2 case studies: một ngọn núi thiêng gần Bắc Kinh và một khu vực đô thị ở Trung Quốc, tập trung vào sự thực thi của những chính sách được kiểm soát bởi nhà nước (institution- driven policies) cũng như sự tác động của những cộng đồng chịu ảnh hưởng và sự xung đột diễn ra giữa họ. Từ góc nhìn của những chính sách công (state policy), chương 2 tranh luận rằng sự tái tạo và tái cấu trúc của các học viện Khổng giáo truyền thống như những địa danh di sản văn hóa đai diện cho một quá khứ của Khổng giáo đã được thanh trùng (sanitized Confucian past), với mục đích nuôi dưỡng bản sắc văn hóa và củng cố sự gắn kết của chủ nghĩa dân tộc. Linda Walton (Portland State University, USA) cho thấy sự đầu tư của nhà nước (state investment) vào những quá trình xây dựng di sản (heritage- making) là cực kì quan trọng, không chỉ đơn giản là việc thu lợi từ di sản mà chúng nên được nhìn nhận như một sự quảng bá về giáo dục cộng đồng (public pedagogy) thông qua việc sử dụng các học viện truyền thống (traditional academy) như một hình mẫu về giáo dục đạo đức có cội rễ trong các giá trị Khổng giáo.
Bài viết của Yingjie Guo (University of Sydney) được xây dựng dựa trên quan điểm này ở chương 3, phân tích sự tái tạo của những di tích tại quê hương của Khổng Tử để cho thấy vị trí của Trung Quốc trong mối quan hệ với di sản đã chuyển hóa từ phủ quyết đến một sự gắn kết chưa từng có với việc bảo tồn di sản. Ông khắc họa mối liên kết chặt chẽ giữa bảo tồn và chủ nghĩa dân tộc, cũng như sự ưu việt của bản sắc chính trị trong quá trình ra quyết định đối với những di tích quan trọng về Khổng giáo. Bằng cách này, ông đã hướng sự chú ý đến hệ tư tưởng chính thống (official ideology) của chủ nghĩa xã hội quốc gia (state socialism), sự tự ý thức về bản sắc quốc gia (national self-identity) và tầm nhìn của Trung Quốc về vị trí của họ trên thế giới. Kristin Bayer’s (Marist College, USA), ở chương 4, giải quyết một biểu tượng quốc tế về cảnh quan ở Trung Quốc, Vạn lý trường thành (Great Wall), thông qua sự đại diện của nó trong các tác phẩm của William Edgar Geil (1865-1924) và gần đây hơn là William Lindesay (b.1956). Tác giả truy dấu bằng phương pháp nào mà ý nghĩa và những biểu tượng của Vạn lý trường thành được sản xuất để vừa vặn với sự tưởng tượng của Trung Quốc và không Trung Quốc (Chinese and non-Chinese imaginings), đề xuất rằng Vạn lý Trường thành là một biểu tượng dễ uốn của di sản văn hóa mà có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau- ngay cả với những vấn đề gây tranh cãi- mối quan tâm, bao gồm cả quốc tế lẫn với người Trung Quốc.
Những chương trên đã tạo tiền đề cho phần 2 “Việc Tạo Ra Bản Sắc: Xây Dựng Quá Khứ, Phân Phối Di Sản”. Trong chương 5, Carol Ludwig (University of Liverpool) và Yi-Wen Wang (Xi’an Jiaotong-Liverpool University) xem xét việc sử dụng có chọn lọc của kí ức và thực hành để tái cấu trúc những phiên bản có chọn lọc của quá khứ. Bảo tàng ngoài trời Beamish ở Durkham, UK và công viên văn hóa thời Tống (Song Dynasty) ở Hàng Châu (Hangzhou) được trình bày như những case studies để so sánh với nhau. Các tác giả sử dụng giáo dục, du lịch và việc tạo ra những bản sắc/ nhân dạng mới như một khung phân tích (hệ phân tích) để hiểu được cách thức khác nhau trong việc phân phối và tiêu thụ di sản văn hóa. Họ cho thấy di sản không chính thức (unauthorized heritage), ví dụ như di sản thương mại được trình bày trong các trường hợp này, thứ mà không cần thiết được tạo ra có chủ đích bởi nhà nước như một phần của AHD, vẫn có thể trở thành 1 phần của nó (AHD), tiết lộ ranh giới đang dần được xóa mờ giữa di sản “chính thức” và không chính thức.
Chương 6 được viết bởi Patrick Wertmann (Institute of Asian and Oriental Studies, Zurich) tương tự, tập trung vào sự phân phối và tiêu thụ của di sản văn hóa bằng cách chứng mình cách thức mà sự phổ biến của di sản văn hóa là một phần chiến lược của chính quyền nhằm củng cố bản sắc văn hóa chung, sự thống nhất xã hội và tinh thần yêu nước giữa những nhóm và tầng lớp khác nhau trong xã hội ở Trung Quốc. Tác giả cung cấp những ví dụ về những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc được đánh bóng thông qua giải trí, giáo dục (giải trí giáo dục- edutainment), sự tạo nên những “trải nghiệm khó quên” và những sự khởi đầu như bảo tàng di động (mobile museum). Ông cho rằng những sự khởi xướng này đã thành công trong việc phổ biến di sản trong khi cùng lúc cho phép truyền đạt đến nhiều đối tượng hơn. Cuối cùng, trong chương này, tập trung vào sự tạo ra, phân phối và tiêu thụ của di sản thông qua các bảo tàng, chương 7 được viết bởi Kenny K. K. Ng (Hong Kong Baptist University) khảo sát hàng loạt các bảo tàng ở Nam Kinh (Nanjing) để chứng tỏ cách thức mà những bảo tàng thuộc thời kì trước và thời kì hiện đại đóng góp vào việc xây dựng nên bản sắc địa phương (local identities) thông qua việc (tái) tạo của quá khứ tại chỗ. Từ đó, ông nhấn mạnh chủ đề của việc tạo ra nơi chốn (place-making) trong việc sáng tạo, phân phối và tiêu thụ di sản.
Phần 3 về Lịch sử, Sự hoài niệm và Di sản: Đô Thị Và Nông Thôn, chọn ý tưởng về nơi chốn, bắt nguồn với với Andrew Law (University of Newcastle). Chương 8 tiết lộ cách mà những diễn ngôn có chọn lọc về lịch sử và sự hoài niệm được sử dụng như một phần của việc tạo ra nơi chốn (place-making) và place-branding, chiến lược cho sự phát triển đô thị cũng như việc xây dựng bản sắc hiện đại Trung Quốc. Tác giả chỉ vào những ví dụ đương thời từ các thành phố ở Thượng Hải (Shang Hai), Vũ Hán (Wuhan) và Tây An (Xian) để chỉ ra lịch sử và sự tưởng tượng của nền Cộng Hòa từ năm những năm 1920- 1930, triều đại giao thương Minh và Thanh (Ming and Qing) và triều đại đế quốc Đường (Tang) đều đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nên lịch sử đô thị bản địa (indigenous urban history) và bản sắc của Trung Hoa hiện đại và tư bản. Những di sản có thật hoặc tưởng tượng này, ông cho rằng, phục vụ như một công cụ quảng bá cực kì quan trọng trong việc tạo ra thương hiệu cho những thành phố của Trung Quốc. Nhưng có lẽ, quan trọng hơn cả là chúng cũng được sử dụng để “hiện thực hóa những tưởng tượng trong hiện tại.” Chuyển đến vai trò của sự hoài niệm và lịch sử trong việc tạo ra di sản ở những vùng nông thôn, Marina Svensson (Lund University, Sweden) phân tích trong chương 9 cách thức mà ở đó, di sản không ngừng được (tái) tưởng tượng ở làng Xinye và cụ thể là cách thức mà việc trình diễn và cách hình thức giải trí trở thành một khía cạnh thiết yếu và được bình thường hóa của quá trình di sản hóa của Trung Quốc.
Trong phần 4, Sự Chiếm Đoạt (appropriation) và Sự Thương Mại Hóa (commodification) của di sản nhóm dân tộc (ethnic heritage) đề cập đến sự tận dụng sắc tộc bởi chính quyền cho sự định nghĩa và xây dựng di sản như một công cụ của sự kiểm soát xã hội và chính trị, và bởi chính các nhóm sắc tộc đó như một hình thức chống trả. Mục đích thứ hai thì được chứng minh bởi Joseph Lawson (University of Newcastle) trong chương 10, trong việc tái chiếm đoạt văn hóa có liên quan đến rượu của nhóm dân tộc Yi như một di sản, xem nó đối nghịch với quan niệm của người Hán Trung Hoa và diễn dịch văn hóa này chỉ đơn giản như một sự tiêu thụ quá mức rượu (vốn bị chỉ trích bởi các nhà nghiên cứu về sức khỏe và quan chức chính quyền). Nghiên cứu này khám phá hàng loạt các tự sự lịch sử (historical narrative) và sự ảnh hưởng của chúng lên các diễn ngôn và thực hành của di sản ngày nay. Điều này được bổ trợ trong chương 11 bởi Melissa Shani Brown và David O’Brien (University of Nottingham) nghiên cứu về sự lí tưởng hóa (idealization) và thương mại hóa của sắc tộc và quá khứ ở Xinjiang. Chương này cũng tập trung vào sự lợi dụng một ngôi làng truyền thống Kazakh để đại diện một sự khắc họa bị lý tưởng hóa về sự hòa hợp sắc tộc của quốc gia- những hình ảnh của sắc tộc bị tóm tắt, tái hiện và phân phối cũng như thương mại hóa và tiêu thụ.
Trong khi các khía cạnh của sự “đổi chiều” di sản ở Trung Quốc đang được ghi chép cẩn thận ở những nơi khác (Blumenfield & Silverman 2014, Maags & Svensson 2018), cuốn sách này đặc biệt chú ý vào sự (tái) trỗi dậy trong một bối cảnh về diễn ngôn và toàn cầu (discursive and global context). Nó cho rằng di sản đang được (tái) tạo, phân phối và tiêu thụ theo nhiều cách khác biệt hay thậm chí thách thức cách hiểu và thực hành về di sản của phương Tây. Thêm vào đó, vai trò và mục đích của của sự tái tạo, phân phối và tiêu thụ di sản đang được mở rộng thành nhiều lĩnh vực mới. Điều này không chỉ liên quan tới giá trị về kinh tế của di sản hay về giáo dục cộng đồng/ tái khẳng định của giá trị đạo đức truyền thống và tư tưởng, mà còn là sự đầu tư và sự gắn kết của bản sắc quốc gia, thanh tẩy và củng cố tinh thần của công dân và gieo giống chủ nghĩa dân tộc văn hóa (cultural nationalism). Ở Trung Quốc và những nơi khác, di sản trở thành một chiến lược chính trị hữu hiệu cho sự ngoại giao quốc tế và quan hệ quyền lực rộng lớn hơn trên diễn đàn quốc tế. Mục đích của cuốn sách này là để tối ưu sự hiểu biết về di sản hóa ở Trung Quốc trong sự giao thoa với phạm vi nội địa, quốc gia và quốc tế, theo dõi động lực của quá trình này bởi vì nó giúp tiết lộ rất nhiều bối cảnh khác nhau, chủ đầu tư và người diễn viên thực hiện và sự phân phối và tiêu thụ của nó.
References
Akagawa N. (2014), Heritage Conservation and Japan’s Cultural Diplomacy: Heritage,
National Identity and National Interest. London: Routledge.
Albro, R. (2012), ‘Cultural Diplomacy’s Representational Conceit’, 12 March 2012.
[Online]. Available from: http://uscpublicdiplomacy.org/index.php/newswire/
cpdblog_detail/cultural_diplomacys_representational_conceit (accessed
13 June 2017).
Askew, M. (2010), ‘The Magic List of Global Status: UNESCO, World Heritage and
the Agendas of States’, in Labadi, S. & C. Long (eds.), Heritage and Globalisation,
19-44. London: Routledge.
Bao, J., G. Chen, & L. Ma (2014), ‘Tourism Research in China: Insights from Insiders’,
Annals of Tourism Research 45: 167-181.
Barmé, G. (2009), ‘1989, 1999, 2009: Totalitarian Nostalgia’, China Heritage Quarterly
18: 1-10.
Barr, M. (2011), Who’s Afraid of China? The Challenge of Chinese Soft Power. London
and New York: Zed Books.
Billioud, S. & J. Thoraval (2015), The Sage and the People: The Confucian Revival in
China. Oxford: Oxford University Press.
Blumenfield, T. & H. Silverman (2014), Cultural Heritage Politics in China. New
York: Springer.
Bonnici, U. (2009), ‘The Human Right to the Cultural Heritage – The Faro Convention’s
Contribution to the Recognition and Safeguarding of This Human Right’,
in CoE (ed.), Heritage and Beyond, 53-59. Strasbourg: CoE Publishing.
Bortolotto, C. (2007), ‘From Objects to Processes: UNESCO’s Intangible Cultural
Heritage’, Journal of Museum Ethnography 19: 21-33.
Byrne, D. (2011), ‘Archaeological Heritage and Cultural Intimacy: An interview with
Michael Herzfeld’, Journal of Social Archaeology 11 (2): 144-157.
CoE (2011), Action for a Changing Society, Framework Convention on the Value of
Cultural Heritage for Society. Strasbourg: CoE Publishing.
Delafons, J. (1997), Politics and Preservation: A Policy History of the Built Heritage
1882-1996. London: Spon Press.
Demattè, P. (2012), ‘After the Flood: Cultural Heritage and Cultural Politics in
Chongqing Municipality and the Three Gorges Areas’, Future and Anterior 9
(1): 48-64.
Denton, K. (2014), Exhibiting the Past: Historical Memory and the Politics of Museums
in Postsocialist China. Honolulu: University of Hawai’i Press.
Dikötter, F. (2016), The Cultural Revolution: A People’s History, 1962-1976. London:
Bloomsbury.
Evans, H. & M. Rowlands (2014), ‘Reconceptualizing Heritage in China: Museums,
Development and the Shifting Dynamics of Power’, in Basu, P. & W. Modest,
(eds.), Museums, Heritage and International Development, 272-294. London:
Routledge.
Fiskesjö, M. (2010), ‘Politics of Cultural Heritage’, in Hsing, Y. & C. Lee (eds.), Reclaiming
Chinese Society: The New Social Activism, 225-245. London: Routledge.
Fiskesjö, M. (2015), ‘Review Essay: The Museum Boom in China and the State Efforts
to Control History’, Museum Anthropology Review 9 (1-2): 96-105.
Fotopoulos, A. (2015), ‘Understanding the Zodiac Saga in China: World Cultural
Heritage, National Humiliation, and Evolving Narratives’, Modern China 41 (6):
603-630.
Foucault, M. (1991), ‘Governmentality’, in G. Burchell, C. Gordon, P. Miller (eds.), The
Foucault Effect: Studies in Governmentality, Chicago, IL: University of Chicago
Press.
Graham, B., G. Ashworth, & J. Tunbridge (2000), A Geography of Heritage: Power,
Culture and Economy. London: Arnold.
Gruber, S. (2007), ‘Protecting China’s Cultural Heritage Sites in Times of Rapid
Change’, Asia Pacific Journal of Environment and Law 253 10: 253-301.
Harvey, D. (2001), ‘Heritage Pasts and Heritage Presents: Temporality, Meaning and the
Scope of Heritage Studies’, International Journal of Heritage Studies 7 (4): 319-338.
Harvey, D. (2015), ‘Heritage and Scale: Settings, Boundaries and Relations’, International
Journal of Heritage Studies 21 (6): 577-593.
Herzfeld, M. (2004), The Body Impolitic: Artisans and Artifice in the Global Hierarchy
of Value. Chicago and London: The University of Chicago Press.
Herzfeld, M. (2010), ‘Purity and Power: Anthropology from Colonialism to the
Global Hierarchy of Value’, Reviews in Anthropology 39 (4): 288-312.
Herzfeld, M. (2014), ‘Intangible Delicacies: Production and Embarrassment in
International Settings’, Ethnologies 36 (1-2): 47-62.
Hewison, R. (1987), The Heritage Industry: Britain in a Climate of Decline. London:
Methuen.
Ho, D. (2011), ‘Revolutionizing Antiquity: The Shanghai Cultural Bureaucracy in
the Cultural Revolution, 1966-1968’, The China Quarterly 207: 687-705.
Hobson, E. (2004), Conservation and Planning: Changing Values in Policy and Practice.
London: Spon Press.
Högberg, A. (2012), ‘The Voice of the Authorized Heritage Discourse: A Critical
Analysis of Signs at Ancient Monuments in Skåne, Southern Sweden’, Current
Swedish Archaeology 20: 131-167.
Hsu, Y. (2013), ‘Antiquaries and Politics: Antiquarian Culture of the Northern Song,
960-1127’, in A. Schnapp (ed.), World Antiquarianism: Comparative Perspectives,
230-248. Los Angeles: Getty Research Institute.
Ip, H., T. Hon & C. Lee (2003), ‘The Plurality of Chinese Modernity: A Review of
Recent Scholarship on the May Fourth Movement’, Modern China 29 (4): 490-509.
Johnson, I. (2016), ‘China’s Memory Manipulators’, The Guardian 8 June 2016.
[Online] Available from: https://www.theguardian.com/world/2016/jun/08/
chinas-memory-manipulators (accessed 12 July 2016).
Jokilehto, J. (1999), A History of Architectural Conservation. Oxford: Butterworth
Heinemann.
Lai, G. (2016), ‘The Emergence of Cultural Heritage in Modern China: A Historical
and Legal Perspective’, in A. Matsuda & L.E. Mengoni (eds.), Reconsidering
Cultural Heritage in East Asia, 47-85. London: Ubiquity Press.
Larkham, P.J. (1996), Conservation and the City. London: Routledge.
Lew, C. (2009), The Third Chinese Revolutionary Civil War, 1945-49: An Analysis of
Communist Strategy and Leadership. London: Routledge.
Ludwig, C. (2013), ‘From Bricks and Mortar to Social Meanings: An Examination
of Local Heritage Designation in England’, PhD diss., Northumbria University.
Ludwig, C. (2016), ‘From Bricks and Mortar to Social Heritage: Planning Space for
Diversities in the AHD’, International Journal of Heritage Studies 22 (10): 811-827.
Maags, C. & M. Svensson (eds.) (2018), Chinese Heritage in the Making: Experiences,
Negotiations, and Contestations. Amsterdam: Amsterdam University Press.
Massey, D. (1995), ‘Places and their Pasts’, History Workshop Journal 39 (1): 182-192.
Matsuda, A. & L.E. Mengoni (eds.) (2016), Reconsidering Cultural Heritage in East
Asia. London: Ubiquity Press.
Meskell, L. (2013), ‘UNESCO’s World Heritage Convention at 40: Challenging the
Economic and Political Order of International Heritage Conservation’, Current
Anthropology 54 (4): 483-494.
Meskell, L. & C. Brumann (2015), ‘UNESCO and New World Orders’, in L. Meskell
(ed.), Global Heritage: A Reader, 22-42. Somerset, UK: John Wiley & Sons.
Meyer-Bisch, P. (2009), ‘On the “Right to Heritage” – The Innovative Approach of
Articles 1 and 2 of the Faro Convention’, in CoE (ed.), Heritage and Beyond, 59-67.
Strasbourg: CoE Publishing.
Mydland, L. & W. Grahn (2012), ‘Identifying Heritage Values in Local Communities’,
International Journal of Heritage Studies 18 (6): 564-587.
Nye, J. (2004), Soft Power: The Means to Success in World Politics. New York: Public
Affairs.
Pendlebury, J. (2009), Conservation in the Age of Consensus. London: Routledge.
Pendlebury, J. (2013), ‘Conservation Values, the Authorised Heritage Discourse
and the Conservation-Planning Assemblage’, International Journal of Heritage
Studies 19 (7): 709-727.
Oakes, T. (2012), ‘Heritage as Improvement: Cultural Display and Contested Governance
in Rural China’, Modern China 39 (4): 380-407.
Ryan, C. & H. Gu (2009), Tourism in China: Destinations, Cultures, and Communities.
New York & London: Routledge.
Shepherd, R. (2009), ‘Cultural Heritage, UNESCO, and the Chinese State: Whose
Heritage and for Whom?’, Heritage Management (2.1): 55-80.
Shepherd, R. (2016), Faith in Heritage: Displacement, Development, and Religious
Tourism in Contemporary China. London & New York: Routledge.
Shepherd, R. (2017), ‘UNESCO’s Tangled Web of Preservation: Community, Heritage
and Development in China’, Journal of Contemporary Asia 47 (4): 557-574.
Shepherd, R. & L. Yu (2013), Heritage Management, Tourism, and Governance in
China: Managing the Past to Serve the Present. New York: Springer.
Silverman, H. & T. Blumenfield (2013), ‘Introduction’, in Blumenfield, T. & H.
Silverman (eds.), Cultural Heritage Politics in China, 3-22. New York: Springer.
Sit, V. (2010), Chinese City and Urbanism: Evolution and Development. Hackensack,
NJ: World Scientific.
Smith, L. (2006), Uses of Heritage. London: Routledge.
Smith, L. & E. Waterton (2009), Heritage, Communities and Archaeology. London:
Gerald Duckworth & Co.
Sofield, T. & F. Li (1998), ‘Tourism Development and Cultural Policies in China’,
Annals of Tourism Research 25 (2): 362-392.
Svensson, M. & C. Maags (2018), ‘Mapping the Chinese Heritage Regime’, in Maags,
C. & M. Svensson (eds.), Chinese Heritage in the Making: Experiences, Negotiations,
and Contestations, 11-37. Amsterdam: Amsterdam University Press.
Sykes, O., & C. Ludwig (2015), ‘Defining and Managing the Historic Urban Landscape:
Reflections on the English Experience and Some Stories from Liverpool’,
European Spatial Research and Policy 22 (2): 9-35.
Taylor, K. (2004), ‘Cultural Heritage Management: A Possible Role for Charters
and Principles in Asia’, International Journal of Heritage Studies 10 (5): 417-433.
UNESCO (2003), Convention for the Safeguarding of the Intangible Heritage. Paris:
UNESCO.
UNESCO (2019a), ‘China’. [Online]. Available from: http://whc.unesco.org/en/
statesparties/cn (accessed 22 July 2019).
UNESCO (2019b), ‘What is Intangible Cultural Heritage?’ [Online]. Available
from: https://ich.unesco.org/en/what-is-intangible-heritage-00003 (accessed
12 August 2019).
Verdini, G.F., Frassoldati, & C. Nolf (2017), ‘Reframing China’s Heritage Conservation
Discourse. Learning by Testing Civic Engagement Tools in a Historic Rural
Village’, International Journal of Heritage Studies 23 (4): 317-334.
Wang, H. (2012), ‘War and Revolution as National Heritage: “Red Tourism” in China’,
in Daly, P. & T. Winter (eds.), Routledge Handbook of Heritage in Asia, 218-233.
London: Routledge.
Wang, S., & M. Rowlands (2017), ‘Making and Unmaking Heritage Value in China’, in
J. Anderson & H. Geismar (eds.), The Routledge Companion to Cultural Property,
258-276. London: Routledge.
Waterton, E. (2010), Politics, Policy and the Discourses of Heritage in Britain. Basingstoke:
Palgrave Macmillan.
Waterton, E., & S. Watson (2013), ‘Framing Theory: Towards a Critical Imagination
in Heritage Studies’, International Journal of Heritage Studies 19 (6): 546-561.
Winter, T. (2014a), ‘Heritage Conservation Futures in an Age of Shifting Global
Power’, Journal of Social Archaeology 14 (3): 319-339.
Winter, T. (2014b), ‘Heritage Studies and the Privileging of Theory’, International
Journal of Heritage Studies 20 (5): 556-572.
Winter, T. (2014c), ‘Beyond Eurocentrism? Heritage Conservation and the Politics
of Difference’, International Journal of Heritage Studies 20 (2): 123-137.
Winter, T. (2015), ‘Heritage Diplomacy’, International Journal of Heritage Studies
21 (10): 997-1015.
Wright, P. (1985), On Living in an Old Country. London: Verso.
Wu, J. (2006), ‘Nostalgia as Content Creativity: Cultural Industries and Popular
Sentiment’, International Journal of Cultural Studies 9 (3): 359-368.
Wu, Z. & S. Hou (2015), ‘Heritage and Discourse’, in E. Waterton & S. Watson (eds.),
The Palgrave Handbook of Contemporary Heritage Research, 37-51. New York:
Palgrave Macmillan.
Zhu, Y. (2015), ‘Cultural Effects of Authenticity: Contested Heritage Practices in
China’, International Journal of Heritage Studies 21 (6): 594-608.
Người dịch: Lipv
Nguồn:
Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t04-4-dien-ngon-khong-chinh-thuc-ve-di-san-va-thuc-hanh-tai-trung-quoc/
Pingback: Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 1) | | Splace
Pingback: Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 2) | | Splace
Pingback: Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 3) | | Splace
Pingback: Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 4) | | Splace