Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất (Chương 2)

Lời giới thiệu: Giới thiêu sơ lược về bối cảnh, tác giả và nội dung sách

Chương 1: Sự tìm kiếm những không gian cư ngụ (The Search for Shelter)

Chương 3: Bên trong (Inside)

Nguồn: https://www.amazon.com/Rethinking-Design-Interiors-Beings-Environment-ebook/dp/B00I0BFK6U

Chương 2: Tồn Tại (Being)

Shashi Caan cho rằng thiết kế không gian nội thất chính là lĩnh vực thiết kế có mối liên hệ trực tiếp và gần gũi nhất đến bản chất của con người so với tất cả những lĩnh vực khác. Trong bối cảnh thế kỉ 21, khi thiết kế có xu hướng ngày càng bành trướng về kích thước, hướng đến những siêu cấu trúc (megastructure) như một giải pháp cho những vấn đề xã hội và phát triển bền vững thì nhà thiết kế nội thất nên là người tiên phong trong việc khám phá những tiêu chuẩn mới cho thiết kế nói chung, xuất phát từ nội tại thay vì ngoại cảnh như hiện nay (working from inside out). Đăc biệt, những tiêu chuẩn mới này phải lấy nhu cầu tinh thần của con người làm trọng tâm:

“Những ngôn ngữ giao tiếp và thị giác hiện nay của chúng ta đã bộc lộ sự giới hạn về khả năng đáp ứng những yêu cầu về chất lượng của không gian nội thất. Thuật ngữ “thiết kế” thì đặc biệt mang tính ứng dụng (nó bao gồm hàm ý về công năng, giao thông và hệ thống hóa những quy định về an toàn vật lý) nhưng chính những khái niệm này lại không thể miêu tả sự tương tác có chủ đích về mặt cảm xúc (intentional emotive interplay) giữa con người, vật thể và môi trường. Sự tác động qua lại này là cần thiết để kích thích những ý thức và hành động cao cả, và đồng thời kiến tạo nên những môi trường mà, ví dụ như, có thể đem đến cảm giác về sự thanh cao, củng cố sự tin tưởng mạnh mẽ hơn như một sản phẩm của quá trính thiết kế.
Phần lớn các lý thuyết kiến trúc đang cố gắng cắt giảm những ý tưởng triết học (philosophical concept) của không gian, sự hài hòa và cân bằng thành những tiêu chuẩn nghệ thuật mang tính hình thức. Đồng thời chúng cũng phác họa hình ảnh con người điển hình trong những công trình như một sự trừu tượng hóa vô hồn (lifeless abstraction), đóng một vai trò gần như thứ yếu trong quá trình thiết kế. Nếu như chúng ta muốn đạt được một phương pháp thiết kế tốt hơn, thì chúng ta phải nhanh chóng tạo ra một phương pháp chính xác hơn trong việc xác định rõ sức mạnh về mặt cảm xúc của việc thiết kế.
Trong một khoảng thời gian rất dài, những nhà thiết kế, trong tất cả mọi lĩnh vực, đã tránh né việc đào sâu một cách nghiêm túc vào những góc độ hiện tượng học (phenomenological aspect) của thiết kế. Chúng ta đang đơn giản hóa sự tồn tại của chúng ta và nghĩ về loài người như những khái niệm toàn thể (universal terms), với một mẫu số chung (common denominator) cho nhu cầu của tất cả mọi người.” 
(Caan, 2001 p.554)

Con người chính là sự kết nối giữa thế giới vật chất hữu hình bên ngoài và thế giới nhận thức bên trong chính chúng ta thông qua sự hoạt động của não bộ và các giác quan. Nói cách khác, “thiết kế chính là sự chiêm nghiệm giữa một trải nghiệm “nội thất” (bên trong không gian và cả bên trong chính chúng ta) với thế giới bên ngoài”. (Caan, 2001 p.583) Do đó, các không gian nội thất không chỉ đơn thuần là nơi diễn ra các tương tác vật lý mà còn đem đến những tác đông đáng kể về mặt tâm lý và cảm xúc. Thông qua những giá trị phi vật chất đó, không gian nội thất được định nghĩa như một lớp da thứ hai của con người– a second skin, lớp da giúp định hình chính con người chúng ta và cách chúng ta tiếp nhận thế giới xung quanh:

“mặc dù nó nằm bên ngoài những giới hạn vật lý của cơ thể chúng ta, làn da thứ hai này lại đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc xác định chúng ta là ai và cách chúng ta nhận thức. Do đó, đặc tính của con người được mở rộng ra khỏi phạm vi vật lý của chúng ta. Thiết kế là một không gian chuyển tiếp nằm giữa làn da và những thứ bên ngoài. Chính vì thế mà nó (không gian nội thất) là một phần nối dài của chính bản thân chúng ta.” (Caan, 2001 p.608)

Hình 1. Mặt cắt giải phẫu của cơ thể con người (bên trái) và mặt cắt của một tòa nhà (bên phải) thể hiện những thành phần bên trong một cấu trúc được ngăn cách với thế giới bên ngoài đều thể hiện chung một khái niệm- nội thất (interior) (Caan, 2001 p.602-603)

Không gian chính là sự phản chiếu của ý thức con người lên thế giới vật chất trên góc độ triết học. H.Van der Laan, tác giả của cuốn sách Không gian kiến trúc: 50 bài học về sự sắp đặt của thói quen của con người, đã khắc họa khái niệm về không gian như một sự đối lập của những khoảng rỗng ẩn dụ (metaphorical void- những không gian được tạo thành từ không gian tự nhiên khi con người xây dựng) và khoảng đặc ẩn dụ (metaphorical solid- cách thức mà chúng ta trải nghiệm những không gian xây dựng). Ông cho rằng việc xây dựng những bức tường khép kín đã xâm phạm vào tính toàn thể (completeness) của không gian tự nhiên. Không gian xây dựng đó được xem như một khối đặc (fullness) bao bọc bởi một sự trống rỗng (emptiness), hay nói cách khác, hành động kiến tạo không gian chính là hình ảnh của những khối đặc bao quanh một sự trống rỗng và sự trải nghiệm không gian chính là cảm giác đứng giữa sự trống rỗng đó. Thông qua dẫn chứng này, Shashi Caan chỉ ra rằng ngay cả với những lý luận không gian lấy xuất phát điểm từ bên trong nhận thức con người rồi phóng chiếu ra thế giới bên ngoài, thì vai trò của con người vẫn bị xem như một thực thể trừu tượng không hề có sự kết nối vật lý đến thế giới bên ngoài. Không gian luôn là một khái niệm trừu tượng, không mang tính cư ngụ (habitable) và thiếu vắng sự kết nối với con người với các hoạt động của họ.

Từ đó, Shashi Caan đã xem xét lại định nghĩa và giới hạn của các không gian giao tiếp (proxemics) mà Edward T.Hall, cha đẻ của các nghiên cứu nhân chủng học trong không gian con người, tác giả của cuốn sách kiến trúc kinh điển Khoảng cách vô hình (The Hidden Dimension) đã đề xuất. Theo Edward, không gian giao tiếp có thể chia thành 4 phạm vi dựa trên khoảng cách:

  1. Không gian thân mật (Intimate space): từ những tiếp xúc trực tiếp cho đến những tiếp xúc cách xa 45cm
  2. Không gian cá nhân (Personal space): một khu vực trong khoảng từ 45cm đến 1.2m
  3. Khoảng cách xã hội (Social distance): một khu vực trong khoảng từ 1.2m đến 3.6m
  4. Không gian công cộng (Public space): một khu vực trong khoảng từ 3.6m đến 7.6m
Hình 2: Biểu đồ về không gian giao tiếp- proxemic của Edward T.Hall. Trong bảng so sánh này, những khu vực tương tác được định hình và phân tích dựa trên các giác quan. Hall đã quan sát thấy rằng trải nghiệm không gian không chỉ còn là vấn đề về thị giác mà còn liên quan đến rất nhiều những mức độ của các giác quan khác nhau. (Caan, 2001 p.716)

Thế nhưng, với quan điểm lấy con người làm trọng tâm trong không gian (a human-oriented vision of space), Shashi Caan cho rằng sự trải nghiệm không gian nội thất không nên dựa trên những vách ngăn vật lý (ví dụ như hành động bước vào từ bên ngoài) mà xuất phát từ chính bên trong con người và bao gồm những thứ xung quanh có mối liên hệ với cơ thể con người:

“Cuối cùng thì, không gian cá nhân không phải là câu hỏi về cách chúng ta nhận thức các điều kiện xung quanh mà hơn cả chính là cách mà chúng ta biểu hiện bản thân thông qua một bối cảnh không gian.” (Caan, 2001 p.716)

Nếu một không gian kiến trúc là thứ cố định, không thể di chuyển thì trang thiết bị nội thất (furniture) được xem như một sự nối dài của chính cơ thể con người (extension of self). Do đó, chúng nên được thiết kế để có thể thích nghi và linh hoạt với các nhu cầu của con người. Trong thiết kế nội thất luôn tồn tại hai vấn đề: công năng và phong cách, đặc biệt là với trang thiết bị nội thất. Chúng ta nên nhớ rằng, trải nghiệm không gian nội thất luôn đòi hỏi sự tham gia của nhiều hơn một giác quan (thị giác). Mùi hương, âm thanh, nhiệt độ, xúc giác đều có tác động đến sự nhận thức về không gian của con người.

Thế nhưng ngày nay, có rất nhiều xu hướng thiết kế (design trend) được định nghĩa chỉ bằng một bức ảnh sắp đặt như một kiểu hoán dụ (metonym) cho toàn bộ xu hướng. Và chúng ta đang định nghĩa sức nặng và giá trị của những không gian thiết kế thông qua những hình ảnh vô hồn trên tạp chí hay truyền hình. Xu hướng này là cưc kỳ đáng báo động vì chúng đang gạt bỏ vai trò của con người trong thiết kế để tạo ra những lớp vỏ thời thượng nhưng vô cảm.

Hình 3: Sơ đồ về mối liên hệ giữa 5 giác quan đến nhận thức và sự phản chiếu của nhận thức đó lên thế giới xung quanh. (Caan, 2001 p.797)

Con người là thước đo của vạn vật (Man is the measure of all things). Tuy nhiên, quan niệm truyền thống – vai trò của con người trong môi trường xây dựng thể hiện qua mối tương quan giữa tỉ lệ cơ thể con người lên các chỉ số đo lường- chỉ nói lên một phần nhỏ của vấn đề:

“Những số đo vật lý là, và sẽ luôn là, chưa hoàn chỉnh. Sự kết nối giữa con người với môi trường xây dựng- nếu xét rộng ra khỏi phạm vi thuần vật lý, thì vẫn chưa được hề khai phá. Khi được công nhận, những tiêu chí (thiết kế) thông qua quá trình trải nghiệm sẽ cấu thành nên thước đo hoàn chỉnh về đàn ông và phụ nữ” (Caan, 2001 p.929)

Sự thoải mái (comfort) là một trong số những nhu cầu của con người được chia sẻ rộng rãi ở cả góc độ cá nhân lẫn tập thể. Cũng như các yếu tố khác của thiết kế, sự thoải mái bao gồm 2 tầng lớp ý nghĩa: phần nội hàm (internal meaning) được trải nghiệm bởi cá nhân trong khi phần ngoại cảnh được thể hiện thông qua các dữ liệu, phương pháp đo lường. Do đó, một người thiết kế giỏi phải nắm bắt được phần ý nghĩa nội hàm bên trong sự thoải mái để từ đó phát triển nên lớp nghĩa bên ngoài. Sự thoải mái không phải một phát minh mới mà chỉ đơn thuần là việc gọi tên một số cảm xúc có sẵn:

“những yếu tố chất lượng của sự thoải mái thường được trích dẫn nhưng ít khi được thực hành. Chúng ta có thể biết rằng ánh sáng không chỉ là nhu cầu cần thiết mà còn là chất xúc tác của cảm xúc (emotional trigger), và một không gian yên tĩnh có thể thúc đẩy những biểu hiện tích cực ở con người, nhưng chúng ta thường xuyên bỏ qua những kiến thức này khi bắt tay vào thiết kế.” (Caan, 2001 p.1024)

Những nhu cầu cơ bản nhất của con người là những nhu cầu đặc trưng nhất cho mỗi cá thế. Sự riêng tư (privacy) là một khái niệm linh hoạt mà theo nhiều nghiên cứu cho thấy, nó bị chi phối mạnh mẽ và sâu sắc nhất không phải bởi nhu cầu con người nói chung mà bởi sự ảnh hưởng của văn hóa:

“sự riêng tư chính là sự chia cách giữa nội tại của con người với sự tồn tại của họ bên ngoài ranh giới của ý thức và cơ thể. Nhận thức của cá nhân về chính bản thân họ, sự trải nghiệm của tính riêng tư có thể xảy ra ở bất kỳ không gian thiết kế nào, không chỉ riêng nhà ở…có những ý kiến truyền thống cho rằng sự riêng tư cao nhất của không gian nội thất thì chỉ có thể xuất hiện trong những không gian cá nhân (domestic space)” (Caan, 2001 p.1146)

Bản chất của con người luôn tồn tại tính hai mặt (duality), bao gồm những cặp đối lập tương phản (ví dụ như sự riêng tư và tập thể). Trong các ngành giáo dục về nghệ thuật và thiết kế, những yếu tố tương phản này lại chỉ thường được xem xét, thảo luận dựa trên góc độ thị giác mà hiếm khi được nhìn nhận như một nhân tố quan trọng giúp duy trì sự cân bằng bền vững.

Đích đến cuối cùng trong thiết kế chính là sự hạnh phúc của con người (well-being). Để đạt được mục tiêu này, một thiết kế không thể chỉ dựa trên các yếu tố nghệ thuật thị giác mà còn phải được xây dựng dựa trên những tiêu chí phi vật thể, giúp xác định nơi chốn của mỗi cá nhân trong thế giới rộng lớn này. Tuy nhiên rõ ràng là phần lớn thiết kế ngày nay khi bị chi phối bởi những hình thức cứng nhắc hoặc các xu hướng về mặt thị giác đều không đạt được tiêu chí đó. Những thiết kế này được tạo ra để tôn vinh những vẻ đẹp vô hồn thay vì sự cư ngụ của con người bên trong đó.
Để đạt được sự hạnh phúc, một thiết kế phải đạt được hai mức độ khác nhau: đầu tiên là tạo ra một khu vực thoải mái thông qua các tiêu chí cụ thể như ánh sáng, nhiệt độ, kích thước, tỉ lệ, màu sắc và vật liệu. Thứ hai, lấp đầy vào không gian đó sự đam mê, cảm hứng, những yếu tố tinh thần cần thiết cho sự hạnh phúc của con người. Nói cách khác, một không gian thiết kế đúng nghĩa sẽ thúc đẩy sự thăng hoa của con người theo cách riêng của chính họ. Do đó, sự hạnh phúc, bên cạnh sức khỏe, an toàn, bảo vệ phải được xem xét như một tiêu chí bắt buộc trong danh sách tiêu chuẩn thiết kế chuyên nghiệp:

“Thiết kế chính là nỗ lực để kéo gần khoảng cách giữa việc chúng ta là ai với con người mà chúng ta khao khát trở thành.” Design is the attempt to bridge the gap between who we are and who we aspire to be” (Caan, 2001 p.1190)

(Còn tiếp)

Dịch và tổng hợp: Lipv

Nguồn tham khảo:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t02-3-shashi-caan-tu-duy-lai-ve-thiet-ke-va-noi-that/5/

Caan, S. (2011) Rethinking Design and Interiors- Human beings in the built environment. London: Laurence King Publishing Ltd

Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất (Chương 1)

Lời giới thiệu: Giới thiêu sơ lược về bối cảnh, tác giả và nội dung sách

Chương 2: Tồn tại (Being)

Chương 3: Bên trong (Inside)

Nguồn: https://www.amazon.com/Rethinking-Design-Interiors-Beings-Environment-ebook/dp/B00I0BFK6U

Chương 1: Sự tìm kiếm những không gian cư ngụ

Ở phần đầu, tác giả truy xuất lại nguồn gốc ra đời của không gian nội thất thông qua quá trình tiến hóa của loài người. Ý niệm về những không gian cư ngụ đầu tiên (the very first habitable environment) đến với loài người dưới hình dáng của một không gian bên trong- hang động:

“hang động cho phép con người có cảm giác được che chắn bảo vệ khỏi những đe dọa và giải phóng con người khỏi cảm giác bất an hay lo lắng. Từ cái khoảnh khắc mà con người lần đầu tiên bước vào bên trong (go inside), cái ý niệm về việc họ là ai đã trở nên khác biệt rất xa so với thứ mà họ có thể hiểu được nếu chỉ ở bên ngoài (stay outside). Câu chuyện về sự tiến hóa của không gian bên trong do đó chính là một sự phản ánh về lịch sử của chúng ta cũng như những nhu cầu thuộc về bản chất (intrinsic need) để cải thiện cách chúng ta trải nghiệm thế giới. Đó cũng là lý do mà chúng ta làm thiết kế. Việc khai quật sâu vào lịch sử môi trường sống của con người không chỉ là việc nhìn lại (look backward) mà còn chính là một phần của hướng tới tương lai (the view of forward). Việc hiểu biết về nguồn gốc nguyên sơ của môi trường xây dựng (built environment) cho phép con người hiểu rõ hơn về cách mà chúng (môi trường xây dựng) tác đông lên chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta ý thức được sự liên kết này, chúng ta mới có thể bắt đầu phát triển cái dàn ý toàn diện về kiến thức tối quan trọng cho việc thiết kế cho tương lai.’’ (Caan, 2011 p.215)

Hình 1. Sơ đồ tóm lược quá trình tiến hóa của không gian trú ngụ (shelter) từ thời tiền sử cho đến tương lai (Caan, 2011 p.235)

Từ việc phát hiện ra những hang động tự nhiên hoang sơ cho đến những hình vẽ đầu tiên được vẽ ra có chủ đích trên vách hang động tới các hoạt động thay đổi, tách rời hang động thành những hình thái nhà ở thô sơ đầu tiên chính là bằng chứng cho việc thiết lập một loạt những nhu cầu kiểm soát khác về vật chất lẫn tinh thần của con người lên môi trường sống, vượt xa ngoài những bản năng sinh tồn tư nhiên. Nói cách khác:

“chính con người chứ không phải việc phát hiện ra không gian cư ngụ đóng vai trò trung tâm trong câu chuyện về nội thất. Thiết kế là một sự can thiệp có chủ đích vào môi trường sống để cải thiện chất lượng cho sự tồn tại của con người. Đáng buồn thay, yếu tố then chốt của bản sắc con người đã không được hiểu đầy đủ. Chúng ta vẫn đang tiếp tục đánh giá sự thành công tương đối của nền văn minh loài người dựa trên những khái niệm kĩ thuật, hiểu sai bí ẩn của sự tiến hóa chủ yếu thông qua những phương pháp lý tính- kĩ thuật hơn là việc đo lường mức độ tiến bộ về sự tự nhận thức ở con người  ” (Caan, 2011 p.317)

Việc xem xét lại nguồn gốc hình thành và phát triển của ngành xây dựng từ những hang động nguyên thủy đã tiết lộ mối quan hệ chặt chẽ giữa không gian bên trong (nội thất) và hình thái bao ngoài (kiến trúc) và cũng đồng thời chỉ ra một quan điểm sai lầm rất phổ biến ngày nay:

“… việc thiết kế và xây dựng có thể được phân loại để phù hợp với những thời đại lịch sử của những phong cách. Tuy nhiên, thời kì tiền sử, một địa hạt đầy hấp dẫn, giai đoạn mà chỉ có những hiện vật hữu hình, thay vì những bằng chứng được ghi chép lại, thì lại hoàn toàn bị cắt rời khỏi môi trường xây dựng đương đại ngày nay. Quan điểm này cũng đồng thời chỉ rõ một nhận định rất đặc hữu:  xem môi trường xây dựng, trên hết như là một hiện tượng bên ngoài (external phenomenon), là một biểu hiện của của sự văn minh, hơn là một trải nghiệm nội tâm cá nhân, được mở rộng từ trong ra ngoài (extends out from within).” (Caan, 2011 p.398)

Nói cách khác, sự phát triển của xã hội loài người và sự ra đời của những phong cách thiết kế đã làm đảo ngược nhận thức của con người về môi trường cư ngụ. Những yếu tố bên ngoài (external conditions) trở thành yếu tố thống trị trong thiết kế. Trong khi đó, những trải nghiệm nguyên sơ nhất giữa con người và không gian bên trong thì đang dần bị quên lãng:

“…nhu cầu của con người về một nơi trú ẩn (shelter) vẫn tồn tại trong chúng ta ngày nay dưới hình thức kí ức về những môi trường đã cưu mang và nuôi dưỡng chúng ta. Những không gian có sự cộng hưởng về mặt cảm xúc (emotional resonance) có thể chính là gợi ý cho câu trả lời: trong một số trường hợp, đó là những kí ức cổ xưa về thiên đường đánh mất, nhưng đồng thời cũng có thể là những nơi chốn gần như bị lãng quên (half-forgotten) mà chúng ta đã từng đi qua khi còn là những đứa trẻ hoặc là người lớn, đang trôi dạt đâu đó trong miền kí ức của chúng ta. Việc tìm kiếm nơi trú ẩn, do đó, mang tính toàn cầu nhưng cũng đồng thời là một hoạt động mang tính cá nhân xét từ bản chất sâu xa nhất.
Một số quan điểm thậm chí đã đưa ý tưởng này đi xa hơn bằng việc cho rằng một trong những kí ức được lưu trữ là một dạng hồi tưởng của một kiểu môi trường nuôi dưỡng lí tưởng: dạ con (the womb)… Ý tưởng về dạ con đặc biệt thú vị ở chỗ nó chỉ ra một cái tham vọng khá chặt chẽ về thiết kế: tạo ra những môi trường có thể hỗ trợ chúng ta một cách toàn diện đồng cũng một sự bảo vệ chắc chắn với thế giới bên ngoài… Không giống như dạ con, cái môi trường bên ngoài này chưa bao giờ tạo điều kiện tối ưu cho sự phát triển của cá thể. Sự mâu thuẫn giữa những nhu cầu nội tại và điều kiện ngoại cảnh thường căng thẳng. Do đó, một không gian nội thất phải có chức năng như một cầu nối giữa những thực tại của thế giới xây dựng (built world) và những điều kiện lí tưởng mà con người tìm kiếm… Điều này giải thích vì sao chúng ta trang trí không gian và thường không để chúng trơ trọi. Những bức tranh trong hang động ở những nơi trú ngụ đầu tiên chính là một nỗ lực truyền đat một thông tin từ trong chính bản thân họ- tổ tiên đầu tiên của chúng ta- vào một cái bình có thể chứa đựng chúng. Không gian nội thất là một không gian đệm trung gian, một khu vực chuyển tiếp (transition zone) giữa bản thân chúng ta và thế giới ở mức độ lớn hơn.”
 (Caan, 2011 p.507)

(Còn tiếp)

Dịch và tổng hợp: Lipv

Nguồn tham khảo:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t02-2-shashi-caan-tu-duy-lai-ve-thiet-ke-va-noi-that/

Caan, S. (2011) Rethinking Design and Interiors- Human beings in the built environment. London: Laurence King Publishing Ltd

Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất

Featured

[Lời người dịch]

Năm 2012, khoa Thiết kế Nội Thất trường đại học Kiến trúc TP.HCM được đổi tên thành khoa Kiến trúc Nội thất. Sự kiện đó một lần nữa làm dấy lên những tranh cãi vốn đã âm ỉ từ trước trong giới chuyên môn về ranh giới giữa 3 khái niệm: Trang trí nội thất, Thiết kế nội thất và Kiến trúc nội thất.

Năm 2017, khi theo học chương trình đào tạo Thạc sĩ về Kiến trúc Nội thất ở Anh Quốc, tôi đã nhận ra rằng sự nhập nhằng này không chỉ tồn tại trong giới học thuật ở Việt Nam mà cả ở châu Âu và Mỹ. Rethinking Design and Interiors- Human Beings in the Built Environment (Tư duy lại về khái niệm thiết kế và những không gian nội thất- Con người trong môi trường xây dựng) là một trong số ít những cuốn sách chuyên ngành được viết dành riêng cho lĩnh vực nội thất dưới góc độ nghiên cứu học thuật. Cuốn sách đã nêu rõ đồng thời lý giải nguyên nhân đằng sau khoảng trống giữa hoạt động thực hành và nghiên cứu học thuật trong chuyên ngành Nội thất. Chính khoảng cách đó là một trong những nguyên nhân khiến chuyên ngành Thiết kế Nội thất sau bao nhiêu năm ra đời vẫn chưa thể đứng ngang hàng với người anh em của nó – Kiến trúc. Sự chênh lệch đó có thể nhận thấy rất rõ thông qua hệ thống phân cấp đào tạo trong giáo dục và ngành nghề trên thế giới.

Nguồn: https://www.amazon.com/Rethinking-Design-Interiors-Beings-Environment-ebook/dp/B00I0BFK6U

Về tác giả và tác phẩm

Shashi Caan, tác giả của cuốn sách có bằng Cử nhân danh dự BFA Hons (Bachelor of Fine Arts) về Thiết kế Nội thất tại University of Edinburgh, Scotland và 2 bằng Thạc sĩ tại Pratt Institute, New York về Thiết kế công nghiệp và Kiến Trúc, bằng Tiến sĩ Danh dự tại New York School of Interior Design. Sau đó, Shashi Caan tiếp tục giữ một loạt các chức vụ quan trọng trong các tổ chức giáo dục và các công ty lớn trong lĩnh vực thiết kế nội thất như: Trưởng khoa Thiết kế Nội thất trường Parson The New School for Design, New York và chủ tịch của Hiệp hội Kiến trúc sư- Thiết kế nội thất (IFI), là người sáng lập ra GloW-DESIGN, một diễn đàn giúp khai phóng tư duy lý luận và khả năng thực tiễn để giải quyết các vấn đề nhức nhối trong thiết kế ngày nay. Đặc biệt, trong suốt quá trình tham gia đào tạo giáo dục, Shashi Caan đã nhận ra được những bất cập và lỗ hổng chuyên ngành trong lĩnh vực Thiết kế nội thất và đó là động lực để bà xuất bản cuốn sách Rethinking Design and Interiors năm 2011.

 “Bạn đang nắm trong tay một cuốn sách có thể chỉ ra phương pháp thiết kế không gian nội thất đặt trong bối cảnh một thế giới mới đầy phức tạp. Cuốn sách này đào sâu khai thác vào những yếu tố khiến chúng ta trở nên “người” hơn (make us human), những thứ có mối quan hệ mật thiết và tồn tại xung quanh con người. Không gian nội thất chính là một trong những yếu tố đó. Cuốn sách cũng đồng thời giúp người đọc khám phá mối quan hệ sâu kín và mật thiết với những căn phòng của họ, trong những ngôi nhà mà chúng ta đang cư ngụ hay bất kì không gian nội thất nào, nơi diễn ra phần lớn những hoạt động hằng ngày của con người, cả ngày lẫn đêm. Tác giả đã phân tích được nguồn gốc mối quan hệ này xuất phát từ những hang động cổ xưa, nơi mà những con người đầu tiên đã lựa chọn để ẩn nấp khỏi mối đe dọa từ thế giới tự nhiên bên ngoài cho đến những văn phòng cao tầng nơi mà sự chuyển đổi kĩ thuật số phức tạp (tuy vẫn còn vô hình) đang diễn ra bên những không gian tinh tế về mặt nhân trắc học.

Khi học hỏi từ hang động cổ xưa cho đến văn phòng hiện đại, chúng ta dường như đã và đang quên mất một số thứ quan trọng nhất khiến chúng ta trở nên “người” hơn: nhu cầu cơ bản về một chỗ trú ẩn, nhu cầu hạnh phúc và nhu cầu tương tác xã hội. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ nhận ra rằng mỗi một chủ đề trên và nhiều vấn đề liên quan, đang và sẽ tiếp tục được nghiên cứu bởi những nhà khoa học xã hội thông qua hoạt động quan sát, thu thập dữ liệu và phân tích. Ngày nay, phương pháp tiếp cận khoa học này đang trở thành trụ cột trong tư duy thiết kế. Nghệ thuật (vẻ đẹp, cảm xúc và trực giác) của không gian nội thất rất cần một nền tảng khoa học (quan sát, nghiên cứu và phân tích).”

Susan S. Szenasy, Trưởng ban biên tập tạp chí Metropolis Magazine

Đây là một cuốn sách đặc biệt dành riêng cho những ai quan tâm đến góc độ giáo dục và đào tạo trong lĩnh vực Thiết kế Nội thất.

Cuốn sách gồm 4 chương:

Chương 1: Sự tìm kiếm những không gian cư ngụ (The Search for Shelter)

Chương 2: Tồn tại (Being)

Chương 3: Bên trong (Inside)

Chương 4: Thiết kế (Design)

Trong bài viết này, tôi sẽ chỉ tóm lược và dịch trích dẫn một số nội dung chính của 3 chương đầu để nói rõ hơn về việc đổi mới tư duy trong giáo dục và thực hành. Để đọc được toàn bộ nội dung sách, bạn có thể tìm mua tại Amazon dưới hai định dạng: ebook và sách giấy tại đây.

(Còn tiếp)

Dịch và tổng hợp: Lipv

Nguồn tham khảo:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t02-1-shashi-caan-tu-duy-lai-ve-thiet-ke-va-noi-that/

Caan, S. (2011) Rethinking Design and Interiors- Human beings in the built environment. London: Laurence King Publishing Ltd

Các phương pháp Sáng tạo trong Thiết kế (Phần 1)

Aside

Thiết kế là một trong những chuyên ngành nghề đòi hỏi khả năng tư duy bền bỉ và sức sáng tạo không ngừng nghỉ. Trong quá trình làm việc, nhà thiết kế cần suy nghĩ và tìm kiếm những ý tưởng mới cho các công trình và dự án khác nhau trong cùng một thời điểm. Việc thường xuyên phải làm việc dưới áp lực cao cùng cường độ làm việc liên tục có khả năng sẽ dẫn đến việc suy giảm sức sáng tạo. Con người để giải quyết vấn đề dễ dàng hơn thường có xu hướng lựa chọn những phương án đã có sẵn với lối tư duy thông thường để đưa ra các đáp án một cách nhanh chóng, khi việc này diễn ra thường xuyên trong một khoảng thời gian dài dễ dẫn đến việc tư duy của chúng ta sẽ trở thành lối mòn và dễ hài lòng với kết quả thu được.

Vậy, làm thế nào để thoát khỏi lối mòn tư duy đó? Làm thế nào để khai phá sức sáng tạo và duy trì khả năng tư duy trong thiết kế?

Trong quy mô của bài viết ngày hôm nay, Splace sẽ giới thiệu đến quý độc giả 3 phương pháp sáng tạo có tính ứng dụng, rõ ràng và hiệu quả, những phương pháp này đã được các nhà khoa học trên thế giới tìm ra và ứng dụng.

Phương pháp sơ đồ tư duy (Mindmap): phương pháp này khá phổ biến trên thế giới, được đề ra bởi tác giả Tony Buzan người Anh. Ứng dụng phương pháp này trong quá trình tư duy sẽ giúp cho người thiết kế phát huy được tiềm năng cùng một lúc của bán cầu não trái và phải. Bán cầu não trái xử lý ngôn ngữ, con số, logic và các sự kiện xảy ra tiếp nối và các thao tác phân tích. Bán cầu nảo phải xử lý nhịp điệu, không gian, ước mơ, tưởng tượng, màu sắc và  sự tổng hợp thông tin (Tony Buzan 1990). Vì thế, phương pháp này thể hiện bằng sơ đồ cùng các hình vẽ, biểu tượng liên quan đến vấn đề cần bàn luận, những hình ảnh hoặc ý tưởng chính được chọn sẽ được thay đổi kích thước và màu sắc để dễ dàng tìm ra đáp án.

Nguồn: https://learningfundamentals.com.au/resources/

Phương pháp 6 chiếc mũ tư duy (six thinking hats): phương pháp “6 chiếc mũ tư duy” được nghiên cứu và phát triển bởi tiến sĩ Edward de Bono năm 1980 và được miêu tả chi tiết trong cuốn sách “Six thinking Hats”. Phương pháp này giúp người sử dụng có nhiều cái nhìn cùng một lúc về một đối tượng mà mỗi một quan điểm đều mang tính khác biệt. Cái hay của “6 chiếc mũ tư duy” này được đánh giá từ việc phương pháp này kích hoạt suy nghĩ song song, đa chiều. Người thực hành khi đội nón mang màu khác nhau sẽ tư duy theo định hướng được yêu cầu mà không bị các yếu tố tâm lý hay thói quen tư duy làm “nhiễu loạn”, từ đó đưa ra cái nhìn khách quan từ nhiều góc độ cho cùng một vấn đề.

Cụ thể hơn:

– Nón trắng: Trung tính – tập trung trên thông tin rút ra được, các dẫn liệu và những thứ cần thiết.

– Nón đỏ: Nóng – tình cảm, cảm giác, cảm nhận, trực quan

– Nón đen: Phê phán và phản biện lại chủ đề những vấn đề được đặt ra xung quanh chủ thể.

– Nón vàng: Tích cực, lạc quan và đưa ra những lợi ích và các điều tốt đẹp.

– Nón lục: Sáng tạo, tìm ra các giả thuyết mới

– Nón xanh dương: Tổ chức lãnh đạo, suy nghĩ và kết nối các sự kiện, đưa ra kết luận và hoàn thiện Concept

Phương pháp tư duy hình thái (Lateral thinking): phương pháp này có cùng cha đẻ với phương pháp 6 chiếc mũ tư duy (six thinking hats) – Edwards De Bono. Tác giả nhận định “lối tư duy một chiều được sử dụng để thay đổi các quan niệm và nhận thức thay vì cố gắng một cách cứng nhắc với các khái niệm và nhận thức tương tự trước đó” (Edward De Bono 1997). Ứng dụng phương pháp này người nghiên cứu cần đưa ra hàng loạt các câu hỏi mà đi ngược lại với hướng giải quyết vấn đề thông thường từ nhiều khía cạnh và phản biện lại kết quả liên tục.

Cụ thể:

– Liệt kê tất cả các giả thiết được đặt ra

– Đặt câu hỏi từ nhiều góc độ, đặt biệt là những góc độ trái chiều

– Thay đổi góc nhìn trái ngược với kết quả ban đầu và bắt đầu phản biện lại kết quả.

Với những phương pháp được liệt kê và phân tích ở trên, các nhà thiết kế sẽ có thêm công cụ để nghiên cứu và sáng tạo trong quá trình làm việc và thực hiện dự án của mình. Lẽ dĩ nhiên,  không có phương pháp nào là vĩnh cửu có thể giải quyêt được mọi vấn đề cũng như không có công cụ nào là hoàn hảo nếu không được thực hành thường xuyên.

Mọi phương pháp sáng tạo đều là sáo rỗng nếu những phương pháp không được ứng dụng trên một nền kiến thức tích luỹ đủ.

(Còn tiếp…)

Tổng hợp và phân tích: A.N

Nguồn tham khảo:

Tony Buzan (1990) The Mind Map Book, Penguin Books Usa Inc.

Edward De Bono 1997 Lateral Thinking: Creativity Step by Step, Harper and Row Usa Inc.

Mặt Tối Của Trào Lưu Kiến Trúc Hiện Đại – Câu Chuyện Của Con Gái Một Kiến Trúc Sư Lớn Lên Ở Không Gian Kiến Trúc Nhà Kính (Phần 2)

04.11.2018

Tác giả: Baron Wormser

Tóm tắt:

Cuốn hồi ký sắp ra mắt của Elizabeth W. Garber – “Sự Sụp đổ”, kể về câu chuyện của chính cô gắn với lịch sử ngôi nhà kính được thiết kế bởi cha mình – Kiến trúc sư Woodie Garber. Cha cô được biết đến như là một Kiến trúc sư hiện đại cực đoan, thực nghiệm và sáng tạo nhất của Cincinnati. Cuốn hồi ký phơi bày những mặt tối của trào lưu kiến trúc hiện đại được đặt trong bối cảnh mối xung đột gay gắt giữa kiến trúc hiện đại và sự thay đổi triệt để, điên rồ của xã hội đầy biến động vào những năm 1960 ở Cincinnati. Dựa trên cuốn hồi ký này, tác giả Baron Wormser đã có cuộc trò chuyện với Gaber, qua đó chúng ta có thể thấy được sự khắc khe của trào lưu hiện đại và lý do tại sao bây giờ cô ấy không thể sống trong một ngôi nhà kính.

Ngôi nhà kính được thiết kế bởi KTS Woodie Garber – Nguồn: https://commonedge.org/

Mặt Tối Của Trào Lưu Kiến Trúc Hiện Đại – Câu Chuyện Của Con Gái Một Kiến Trúc Sư Lớn Lên Ở Không Gian Kiến Trúc Nhà Kính (Phần 1)

(Tiếp theo)

BW: Baron Wormser

EWG: Elizabeth W. Garber

BW: Lớn lên trong một căn nhà theo phong cách hiện đại có ý nghĩa như thế nào với bạn?

EWG: Ba thế hệ của gia đình tôi sống trong ngôi nhà theo phong cách Victoria. Tôi lớn lên ở đó và cảm thấy mình giống như cô gái trong một tiểu thuyết của Louisa May Alcott. Lúc tôi năm tuổi, gia đình tôi có đến nghỉ dưỡng tại một ngôi nhà hiện đại do cha tôi thiết kế cho người bạn của ông ở đảo Nantucket trong khoảng môt tuần. Đây cũng là trải nghiệm đầu tiên của tôi về việc sống trong một căn nhà hiện đại. Tôi cảm nhận được mặt trời, gió và ánh sáng tràn ngập ngôi nhà giống như ở ngoài biển. Ánh sáng ngập tràn không gian là những ký ức sống động nhất của tôi về thời thơ ấu. Tôi như là một người khác khi tôi ở đó. Tôi bị cuốn hút vào thiết kế của cha tôi và háo hức chờ đợi đến ngày chúng tôi sỡ hữu một căn nhà hiện đại và rời khỏi căn nhà cũ.

Vào giữa những năm 60, chúng tôi đã chuyển đến sống ở một căn nhà kính, cảm xúc của chúng tôi lúc đó rất phức tạp. Thoạt nhìn, căn nhà như một cái hộp được làm bằng các miếng gỗ dán thô ráp chưa hoàn thiện với các bức tường làm bằng kính và bị bao quanh bởi những đám ruộng lầy lội. Gia đình chúng tôi lúc đó như đang ở trong một công trình đang xây dựng và tất cả các thành viên đều phải dành mỗi cuối tuần để cùng nhau hoàn thiện căn nhà. Còn người cha thân yêu và tuyệt vời của chúng tôi hầu như không xuất hiện ở nhà và ông trở thành người đốc công để vận hành việc xây dựng. Nhưng lúc đó tôi chỉ 12 tuổi và các em trai thì mới 9 và 6 tuổi vì thế chúng tôi không thể hoàn thành những gì mà ông trông đợi. Điều này đã bắt đầu cho việc chúng tôi được giảng dạy thường xuyên. Có một điều thật lạ là chúng tôi chuyển đến không gian được thiết kế dành riêng cho mình nhưng lại không được có tiếng nói gì ở đó. Tôi phát ốm khi biết về bản vẽ, nhìn thấy hai cái giường đôi và những cái ghế trong phòng tôi đã được vẽ ra. Thậm chí tôi không được nói một lời nào về căn phòng của tôi.

Khi mà căn nhà được hoàn thiện, có đầy đủ nội thất hiện đại, nghệ thuật, điêu khắc, những chiếc đèn trên trần và dàn âm thanh lớn dùng cho máy chơi đĩa. Ngôi nhà như một kiệt tác, đẹp ngoạn mục và không có lời nào có thể diễn tả được. Chúng tôi chỉ là những đứa trẻ, chúng tôi chỉ muốn một ngôi nhà không có những cái cưa và mùn gỗ. Nhìn những gì có được, chúng tôi rất tự hào những điều đã làm. Chúng tôi đã có được tất cả những gì mình muốn. Nhưng nó lại quá to và quá sáng, không có cảm giác ấm cúng, không có sự riêng tư. Đôi khi tôi cảm thấy mọi thứ phơi bày ra giữa ban ngày và cảm thấy ngượng ngùng khi những bức tường kính dài trở thành những chiếc gương vào ban đêm. Chúng tôi như đang sống trong một bảo tàng với tất cả mọi thứ đều hiện đại.

Công trình của Garbers, một kiệt tác của gia đình

BW: Bạn thấy có điều gì đáng sợ trong phiên bản kiến trúc hiện đại của cha mình không?

EWG: Tôi cảm thấy như có một cái bóng trong cuộc đời của chúng tôi ở căn nhà kính đó, đại loại kiểu như chúng tôi bị mắc kẹt trong mặt tối của chiếc gương. Chúng tôi bị chi phối bởi nhiều luật lệ của kiến trúc hiện đại. Vì kiến trúc sư Corbusier nói không với ghế dài, rèm che, đèn để sàn nên chúng tôi không có quyền được thắc mắc tại sao. Chúng tôi không thể tìm thấy được một nơi nào trong căn nhà để có thể ngồi lại cùng với nhau. Chúng tôi ngồi tách biệt, cô lập trên những chiếc ghế Knolls và Eames dưới ánh đèn trần. Nếu trước kia chứng rối loạn lưỡng cực cha tôi bị kìm hãm trong ngôi nhà kiểu Victoria với nhiều hành lang, thì giờ đây nó đã có cơ hội bộc phát thông qua căn phòng sinh hoạt chung với bức tường kính khổng lồ. Mỗi khi cha tôi bật đèn sáng hơn, mở nhạc to hơn, ông dường như muốn nhấn mạnh việc được sống một cuộc sống hiện đại như mơ của chính mình. Trong khi cuộc sống của chúng tôi thì bị phơi bày một cách quá lộ liễu và không có một ranh giới nào cả. Nó y hệt như một loại cocktail nguy hiểm. Cuộc sống của chúng tôi đã bị xáo trộn. .

BW: Bạn đã cảm thông với những gì cha bạn đã làm với tư cách một kiến trúc sư. Vậy bạn có nhìn nhận cha mình như một anh hùng khi ông công kích vào những kẻ thù của chủ nghĩa hiện đại hay là một điều gì khác?

EWG: Lúc nhỏ khi tôi dạo quanh những công trình của cha tôi, đặc biệt là thư viện công cộng Cincinnati, tôi đã rất kính sợ ông. Những công trình của ông nội tôi là một vài trong số những công trình ấn tượng nhất trong thành phố, bao gồm một trong những tòa tháp trên đường chân trời ở nơi đây, là tòa Central Trust Tower. Tôi cảm thấy các nhà kiến trúc sư như những người quan trọng nhất của thế giới. Tôi thông cảm với những cuộc chiến của cha tôi để ông có thể hoàn thành được những công trình của mình, điều mà chúng tôi vẫn thường được nghe nói trong các bữa ăn tối.

Trong quá trình tôi viết cuốn hồi ký của mình, một cố vấn đã rất ngạc nhiên khi biết tôi học về sử thi Hy Lạp thời đại học, “Bạn đã lớn lên trong một thế giới thần thoại, và cha bạn là một anh hùng của những huyền thoại vĩ đại”. Giống như Odysseus, cha tôi chỉ là một anh hùng rơm bị vây quanh bởi những khó khăn. Nhưng trong sử thi thì anh hùng cuối cùng cũng tìm được đường về nhà.  Thế nên dù cho giữa chúng tôi có xung đột thế nào đi chăng nữa thì tôi vẫn hy vọng ông có thể tìm thấy đường về nhà.

BW: Từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, có bao giờ bạn cảm thấy bị phân biệt đối xử theo kiểu trọng nam khinh nữ trong quan điểm về kiến trúc hiện đại của cha bạn không?

EWG:  Trong thập niên 50 và 60 việc phân biệt đối xử và trọng nam khinh nữ là chuyện bình thường. Ở văn phòng làm việc của cha tôi, tất cả nhân viên đều là đàn ông và làm việc bên bàn vẽ, chỉ một người phụ nữ duy nhất chính là thư kí của ông. Khi tôi, với tư cách là người phụ nữ, nói rằng tôi muốn trở thành một kiến trúc sư, cha tôi đã bác bỏ ý kiến đó ngay lập tức. Ông cho rằng thế giới xây dựng là quá khắc nghiệt đối với phụ nữ và họ không thể cạnh tranh trong công việc với nam giới, và họ cũng không coi trọng một người phụ nữ làm công việc này. Cha tôi tham gia vào một câu lạc bộ văn học chỉ toàn nam giới và họ thậm chí còn không cho phép phụ nữ phục vụ bữa ăn cho họ.  Cha tôi còn tuyên bố rằng nếu tôi muốn tốt nghiệp cao đẳng, tôi nên theo học trường đào tạo thư ký. Và tôi đã rất tức giận. Tôi sẽ không trở thành một thư ký.

Nhưng có hai người phụ nữ là trường hợp ngoại lệ trong mối quan hệ công việc của cha tôi. Như Alice Friedman chỉ ra trong Phụ nữ và Tạo dựng ngôi nhà hiện đại, nhiều ngôi nhà hiện đại ra đời vì sự hợp tác ngoại lệ giữa những khách hàng nữ và kiến trúc sư. Có một khách hàng mà cha tôi đã quen biết từ khi họ còn là sinh viên đại học tại Cornell, người mà ông thừa nhận có thể là một kiến trúc sư, nhưng sau này đã trở thành một nghệ sĩ và nhà thiết kế thảm. Cô ấy muốn một ngôi nhà không có góc vuông và có những yêu cầu rất cụ thể về cách trang trí ngôi nhà của cô ấy. Cha tôi thừa nhận sự hợp tác của họ.

Người dịch: Tuyen Vo

Nguồn tham khảo:

Link báo: https://commonedge.org/an-architects-daughter-explores-modernisms-shadow/

[Infographic] Gỗ công nghiệp từ A – Z

Featured

Trong các loại vật liệu hoàn thiện, gỗ luôn chiếm 1 vị trí quan trọng trong thị trường thi công nội thất. Tuy nhiên, với nạn chặt phá rừng vô độ, thiếu công tác trồng và bảo vệ rừng tại Việt Nam (Tính đến tháng 09/2017, diện tích rừng bị chặt phá là 155,68 ha và 5364,85 ha diện tích rừng bị cháy. Độ che phủ rừng ở nước ta hiện còn chưa đến 40%, diện tích rừng nguyên sinh còn khoảng 10%), việc sử dụng gỗ tự nhiên trở nên vô cùng đắt đỏ đối với phần đông người tiêu dùng.

Phương pháp thay thế khả dĩ nhất chính là gỗ công nghiệp, có cùng nguồn gốc, lại có những đặc tính vật lý ưu việt (chống ẩm, chống mối mọt, ít bị cong vênh, co ngót) và đặc biệt là giá thành rẻ hơn so với gỗ tự nhiên.

Vậy, gỗ công nghiệp là gì?

Gỗ công nghiệp (Wood – Based Panel) là thuật ngữ dùng để phân biệt với loại “gỗ tự nhiên” (loại gỗ lấy từ thân cây gỗ). Gỗ công nghiệp sử dụng keo hay hóa chất kết hợp với gỗ vụn để làm ra tấm gỗ (từ ngọn, cành của cây gỗ tự nhiên). 

Gỗ công nghiệp được cấu thành bởi 2 yếu tố: Lõi (cốt gỗ) và bề mặt.

6 loại lõi gỗ công nghiệp:

  1. PB/PB CHỐNG ẨM (Particle Board- Ván dăm)
  2. MDF/MDF CHỐNG ẨM (Medium Density Fiberboard – Gỗ ván sợi mật độ trung bình)
  3. HDF/HDF CHỐNG ẨM (High Density Fiberboard- Gỗ ván sợi cứng)
  4. PW-PLYWOOD (Ván ép/ Gỗ dán)
  5. OSB (Oriented Strand Board – Ván dăm định hướng)
  6. WPB (Water Proof Board)

5 bề mặt phủ gỗ công nghiệp:

  1. MELAMINE
  2. LAMINATE
  3. ACRYLIC
  4. VENEER
  5. SƠN BỆT

Mỗi loại cốt gỗ và bề mặt đều có những đặc tính vật lý, giá thành, khả năng ứng dụng trong nội thất khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu thẩm mỹ, tiềm lực kinh tế của gia chủ.

Xem chi tiết thông tin mỗi loại vật liệu trong Infographic sau:

Người viết: Lam Thanh (Splace)

Nguồn tham khảo:

https://socialforestry.org.vn/nan-chat-pha-rung-o-viet-nam/

https://www.archdaily.com/926508/wooden-boards-differences-between-mdf-mdp-plywood-and-osb

https://www.ancuong.com/vi/san-pham/san-pham-chinh/van-tho-cong-nghiep

https://noithatduckhang.com.vn/ho-tro/tim-hieu-noi-that/1326-cac-loai-be-mat-phu-len-cot-go-trong-san-xuat-cong-nghiep.html

https://noithatduckhang.com.vn/ho-tro/tim-hieu-noi-that/1336-cac-loai-cot-go-trong-san-xuat-cong-nghiep.html

http://kientrucca.vn/go-cong-nghiep-la-gi-cac-loai-go-cong-nghiep-thuong-su-dung-trong-thiet-ke-noi-that.htm#/lvchitiet-821

Sắp đặt không gian Nhà ở mùa dịch Covid-19

Featured

Theo Bộ Y tế, đến hiện tại Việt Nam có 44 ca dương tính với Covid-19, 268 trường hợp nghi nhiễm (là những người có dấu hiệu ho, sốt, trở về từ vùng dịch) và 28.979 trường hợp phải cách ly, giám sát y tế. Số lượng người nhiễm tăng theo cấp số nhân dù chính phủ ở các quốc gia thời điểm hiện tại đã gia tăng cách ly, bảo vệ sức khỏe người dân và đảm bảo các phương án phòng chống.

Không có sự bảo vệ an toàn nào bằng một ý thức cao và sự bình tĩnh phòng bệnh trong lúc này. Mỗi cá nhân cần tránh việc đi ra ngoài nếu không cần thiết, tụ tập nơi đông người và cần đầu tư không gian sống đúng nghĩa, đảm bảo an toàn mà còn đem lại những luồng sinh khí tươi mới cho thành viên trong gia đình trong những ngày này.

Hình ảnh: Nguồn Pinterest

1. THƯỜNG XUYÊN SẮP XẾP, DỌN DẸP NHÀ CỬA
Việc sắp xếp gọn gàng và dọn dẹp thường xuyên sẽ mang lại sự thoáng đãng và sạch sẽ cho không gian sống của bạn. Có thể sử dụng xà phòng thông thường là đủ dùng, chỉ khi nào trong nhà có người bệnh, hoặc gần khu vực có người nhiễm virus corona mới cần sử dụng các dung dịch tẩy rửa đặc biệt như Javel hay Cloramin B. Đặc biệt lưu ý, phải vệ sinh tay nắm cửa, vì đó là nơi rất nhiều người tiếp xúc thường xuyên.

2. MỞ CỬA SỔ & SỬ DỤNG LƯỚI CHỐNG CÔN TRÙNG
Việc khai thác tối đa các nguồn năng lượng tự nhiên nhằm hạn chế tạo môi trường ẩm thấp dễ sinh sôi virus là điều quan trọng, nhưng chủ nhà nên kết hợp thêm hệ thống lưới chống côn trùng để đảm bảo an toàn tốt hơn. Mở cửa sổ và sử dụng lưới chống côn trùng là giải pháp thông minh, vừa đảm bảo nguồn nắng gió tự nhiên thông thoáng căn phòng, mà không bị làm phiền bởi các vị khách “không mời mà tới”

3. PHÂN CHIA CÁC KHÔNG GIAN RÕ RÀNG
Hãy phân chia không gian dành cho vật dụng sử dụng bên ngoài và vật dụng sử dụng trong nhà thành hai khu riêng biệt, có thể sử dụng vách ngăn, hộp chứa đựng…Hạn chế việc tiếp xúc giữa các vật phẩm này tạo điều kiện lây nhiễm qua lại.

4. TINH DẦU KHÁNG KHUẨN
Dùng tinh dầu xông có thể làm không khí trong lành và dễ chịu hơn khá nhiều. Đặc biệt là tinh dầu tràm giúp kháng khuẩn cao, tăng sức đề kháng cho thành viên gia đình.

5. MÁY LỌC KHÔNG KHÍ
Máy lọc không khí sử dụng công nghệ cao hoạt động dựa trên nguyên tắc phát ra các ion mang điện tích, tác động vào cấu trúc protein của vi khuẩn, vi rút làm phá vỡ và ngăn chặn sự sinh sôi của chúng. Nhờ đó có thể thanh lọc không khí khử các mùi ẩm mốc, độc hại gây dị ứng và có hại cho sức khỏe. Một số máy lọc không khí trên thị trường có khả năng tạo ẩm tự động bằng cách tạo ra hơi nước thông qua bộ lọc ẩm và bay hơi tự nhiên ra ngoài không khí, giúp việc duy trì độ ẩm trong phòng luôn ở mức tối ưu.

Mùa dịch quan trọng nhất chính là tinh thần cảnh giác, không chủ quan với dịch bệnh.

Bảo vệ sức khỏe cho bản thân chính là bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng.

Tổng hợp: An Nguyen (Splace)

Hình thái của Cảm xúc – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)


NHỮNG CẢM XÚC NGUYÊN SƠ CỦA KIẾN TRÚC

Tôi vẫn luôn cho rằng kiến trúc không thể chỉ là một trò chơi đơn thuần về hình khối. Quan điểm này không xuất phát từ những sự thật hiển nhiên rằng kiến trúc thường bị ràng buộc với mục đích thực tiễn của nó và rất nhiều những điều kiện bên ngoài. Thế nhưng nếu một công trình không thể đáp ứng được những điều kiện cơ bản về hiện tượng học để cấu thành nên nó như  một biểu tượng về sự tồn tại của loài người, công trình đó sẽ không thể tác động đến những xúc cảm liên kết với tâm hồn của chúng ta thông qua những hình ảnh mà nó tạo ra. Hiệu ứng kiến trúc được dựa trên những thứ mà chúng ta gọi là cảm xúc nguyên sơ. Những cảm xúc này tạo nên những ngôn ngữ cơ bản của kiến trúc theo một cách chân thật nhất và bằng cách sử dụng những ngôn ngữ này, một sản phẩm có thể trở thành kiến trúc và không chỉ là một khối điêu khắc cỡ lớn hoặc một hình vẽ phối cảnh.

Kiến trúc chính là sự biểu hiện trực tiếp của khái niệm tồn tại, của sự hiện diện của loài người trên thế giới này. Nó là sự biểu hiện trực diện bởi vì kiến trúc phần lớn dựa trên ngôn ngữ của cơ thể- điều mà ngay cả tác giả và người sử dụng cũng không ý thức được.

Những hình thức  trải nghiệm sau có thể là một trong những cảm xúc nguyên sơ đến từ kiến trúc:

– ngôi nhà như một biểu tượng của văn hóa trên một vùng đất, ngôi nhà như một sự phóng chiếu của con người và một điểm quy chiếu đến vùng đất đó;

– tiếp cận một công trình, nhận ra sự cư ngụ của con người hoặc một hình thức có sẵn dưới hình dạng của một ngôi nhà;

– đi vào một vùng ảnh hưởng của một công trình, bước vào lãnh địa của nó, thường là gần công trình

– có một mái nhà trên đầu, được cư ngụ và che chắn

– bước vào một ngôi nhà, bước qua cánh cửa, bước qua lằn ranh giữa nội thất và ngoại thất

– về nhà hoặc bước vào nhà vì một mục đích cụ thể, một kì vọng hoặc một sự thỏa mãn, cảm giác xa lạ và thân thiết.

– ở trong một căn phòng, cảm giác an toàn, cảm giác cùng nhau hoặc sự cô lập

– nằm trong vùng ảnh hưởng của điểm trung tâm nơi liên kết toàn bộ công trình, ví dụ như bàn, giường ngủ hoặc lò sưởi

– đối diện với ánh sáng hoặc bóng tối đang bao trùm không gian, không gian của ánh sáng

– nhìn ra ngoài cửa sổ, cửa sổ như sự liên kết với cảnh quan/ vùng đất

Tôi cho rằng trải nghiệm sự cô đơn chính là một trong những cảm xúc cơ bản mà kiến trúc mang lại, cũng như những trải nghiệm về sự tĩnh lặng và ánh sáng thường được tìm thất trong những trang viết của ( Louis) Kahn. Một trải nghiệm kiến trúc mạnh mẽ luôn đem đến cảm giác cô đơn và tĩnh lặng bất kể có bao nhiêu người hoặc tiếng ồn xung quanh. Trải nghiệm nghệ thuật là cuộc đối thoại riêng tư giữa tác phẩm và người sử dụng và loại bỏ tất cả những tương tác khác- Experiencing art is a private dialogue between the work and the person experiencing it which excludes all other interaction.

Những cảnh quan tự nhiên không bao giờ có thể biểu hiện sự cô đơn theo cùng một cách mà các công trình (nhân tạo) đem đến. Thiên nhiên không cần đến con người để biểu hiện bản thân nó, nhưng một công trình chính là đại diện cho người xây dựng nên nó và cũng đồng thời tiết lộ sự vắng mặt của họ. Cảm giác đau đớn khi bị bỏ lại một mình thông qua phương pháp biểu hiện ẩn dụ được dựa trên phần lớn những dấu hiện liên quan đến con người, những dấu hiệu đó như một sự gợi nhớ về cảm giác cô đơn đối với người thưởng thức.

Trải nghiệm kiến trúc rõ ràng và có lẽ là quan trọng nhất là cảm giác được ở một nơi độc nhất (unique place). Một phần của trải nghiệm mạnh mẽ này thông thường chính là  ấn tượng về một điều gì đó thiêng liêng: đây là nơi dành cho những điều thiêng liêng (higher beings). Một ngôi nhà có thể trông như được xây dựng cho một muc đích thực tế, nhưng sự thật là nó là một phương tiện siêu hình học, một công cụ thần bí mà chúng ta dùng để tạo ra sự phản chiếu về cái vô hạn lên sự tồn tại hữu hạn của loài người.

Kiến trúc vẫn luôn được cư ngụ bởi những linh hồn. Những người mà chúng ta biết có thể đang sống tốt trong những tòa nhà, nhưng họ chỉ diễn viên đóng thế trong một waking dream (một trải nghiệm có được khi con người đang trong trạng thái tỉnh nhưng lại cảm giác như đang trong một giấc mơ). Trong thực tế, kiến trúc luôn là nhà của những linh hồn, là nơi cư ngụ của những thực thể siêu hình (metaphysical beings).

Những người bảo vệ cho tính con người của kiến trúc ngày nay đang hoàn toàn nhầm lẫn khi họ cho rằng những công trình kiến trúc nên được thiết kế cho nhu cầu của những con người thực. Tôi muốn họ kể tên một công trình vĩ đại bất kỳ trong lịch sử kiến trúc mà không được xây dựng cho những con người lí tưởng. Điều kiện tiên quyết cho việc tạo ra một kiến trúc tốt là tạo ra một chủ đầu tư lý tưởng cho một dự án sắp tới.

TRẢI NGHIỆM ĐA GIÁC QUAN

Một trải nghiệm kiến trúc đầy ấn tượng sẽ lay động toàn bộ khả năng cảm thụ vật chất và tinh thần. Không dễ dàng để nắm bắt cấu trúc của cảm xúc bởi vì sự vô chừng và đa dạng của chúng. Trong những trải nghiệm này, chúng ta tìm thấy một sự kết hợp của sinh học và văn hóa, của tập thể và cá nhân, của nhận thức và vô thức, của lí tính và cảm tính, của tinh thần và thể xác.

Những biểu tượng và sự kết hợp trong ngôn ngữ của nghệ thuật có thể được diễn đạt theo nhiều cách và khiến nhận thức của con người chuyển hướng từ một sự diễn đạt này theo một sự diễn đạt khác. Adrian Stokers liên hệ tới sự liên kết gần gũi giữa trải nghiệm về đá marble, điêu khắc nổi (low relief) và sự tưởng tượng về nước (water fantasy)

Vậy thì như thế nào về những không gian được tạo ra bởi những giọt nước rơi thi thoảng trong một hầm tối ẩm thấp, những không gian đô thị được tạo ra từ âm thanh của những tiếng chuông nhà thờ, ý nghĩa về khoảng cách mà chúng ta cảm thấy khi âm thanh của một chuyến tàu đêm xuyên qua giấc mơ của chúng ta hay mùi không gian của một tiệm bánh hoặc một cửa hàng bánh ngọt? Tại sao những ngôi nhà bỏ hoang, lạnh lẽo ở khắp mọi nơi đều cùng có mùi của sự chết chóc? Đó có phải là vì mùi mà chúng ta ngửi được thực tế chính là thứ được tạo ra thông qua đôi mắt?

SỰ KHỞI ĐẦU

Tôi đã từng nói chuyện với một tu sĩ nhà thờ về việc thiết kế nhà thờ. Ông ấy đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu biết những nghi thức lễ tế, tính biểu tượng và những quy định bên trong của nhà thờ. Ông trông có vẻ phật ý khi tôi nói rằng chỉ có một người ngoại đạo mới có thể thiết kế một nhà thờ mang đầy tính biểu cảm. Theo quan điểm của tôi, biểu tượng của lòng tin chỉ có thể được biểu đạt một cách mạnh mẽ nhất bởi một người mới với thế giới của niềm tin. Một người mà nếu thiết kế nhà thờ của họ chỉ đơn giản là sự tổ chức của những hình khối được chỉ định thì chỉ có thể tạo ra một sự trống rỗng về mặt cảm xúc.

(Hết)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)

Hình thái của Cảm xúc – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)


Ý NIỆM/ BẢN THỂ (EIDOS) CỦA KIẾN TRÚC

Với tư cách là những kiến trúc sư, chúng ta ko đơn thuần thiết kế những công trình như những vật thể vật lý mà như những hình ảnh và cảm xúc của những con người đang sống trong đó. Do đó, hiệu quả của kiến trúc xuất phát ít hay nhiều từ những hình ảnh chung (common images) và những cảm xúc cơ bản liên kết với công trình.

Hiện tượng học phân tích những cảm xúc cơ bản đó và nó cũng đang dần trở thành một công cụ phổ biến để đánh giá kiến trúc trong những năm gần đây. Một cách tiếp cận mang tính triết học gắn liền nhiều nhất với những cái tên như Edmund Husserl và Martin Heidegger. Cách tiếp cận này mang tính tự sự/ nội quan về bản chất, tương phản với mong muốn về sự khách quan của quan điểm thực chứng. Hiện tượng học cố gắng phác họa những hiện tượng liên quan trực tiếp đến sự nhận thức mà ko có bất kì lí luận nào có nguồn gốc từ các môn khoa học tự nhiên hay tâm lí học. Do đó, hiện tượng học nghĩa là kiểm chứng một hiện tượng của nhận thức dựa trên chính chiều kích của chính sự nhận thức đó (Phenomenology thus means examining a phenomenon of the consciousness in its own dimension of consciousness) Điều đó, hay như ý tưởng của Husserl là “”một cái nhìn thuần khiết (pure looking) vào hiện tượng” hay “nhìn vào bản chất vấn đề”. Hiện tượng học là một cách tiếp cận lý thuyết thuần túy trong nghiên cứu theo đúng ý nghĩa nguyên bản của từ Hy Lạp- theoria, nghĩa là “sự nhìn vào” (a looking at).

Hiện tượng học trong kiến trúc do đó chính là việc nhìn vào kiến trúc từ bên trong cái nhận thức đang trải nghiệm nó (kiến trúc), thông qua những cảm xúc về kiến trúc. Điều này tương phản với việc phân tích những tỉ lệ và tính chất vật lý của một công trình hoặc một khuôn mẫu phong cách được sử dụng. Hiện tượng học trong kiến trúc tìm kiếm ngôn ngữ nội tại của một công trình.

Có một sự hoài nghi to lớn về cách tiếp cận nội tại với nghệ thuật bởi vì sự thiếu khách quan của nó. Nhưng dường như con người không có vẻ muốn đòi hỏi cùng một sự khách quan đó từ các tác phẩm sáng tạo của nghệ sĩ. Một tác phẩm nghệ thuật là một thực tại chỉ khi nó được trải nghiệm và việc trải nghiệm của tác phẩm cũng chính là việc tái tạo lại những chiều kích cảm xúc của nó.

Một trong những vật liệu thô sơ (raw material) quan trọng nhất cho những phân tích hiện tượng của kiến trúc chính là kí ức đầu về tuổi thơ (early childhood memory). Chúng ta thường cho rằng kí ức tuổi thơ là sản phẩm của sự nhận thức non nớt ngây ngô. Đồng thời, dù có một sự hấp dẫn to lớn nhưng khả năng ghi nhớ kí ức của trẻ em thường bị coi thường vì thiếu giá trị thực tiễn, như chính những giấc mơ của chúng ta. Nhưng cả hai ngộ nhận này đều sai lầm. Chắc chắn rằng vẫn có một số kí ức ban đầu nhất định sẽ còn lưu giữ những nhận diện cá nhân (personal identifiability) và sức mạnh cảm xúc thông qua cuộc sống của chúng ta. Chính những kí ức này có thể cung cấp những bằng chứng thuyết phục về sự quan trọng và sự nguyên bản của những trải nghiệm này, cũng như những giấc mơ và sự mơ mộng có thể tiết lộ một phần chân thật và ngẫu nhiên nhất về những gì trong đầu chúng ta.

KIẾN TRÚC KHÔNG CẦN KIẾN TRÚC SƯ

Những nguyên liệu có lợi cho việc phân tích hiện tượng học của những trải nghiệm kiến trúc cũng có thể được tìm thấy ở những lĩnh vực nghệ thuật khác, nơi mà kiến trúc được trình bày và phác họa theo những cách khác nhau. Trong thơ ca, hình ảnh được liên kết với những công trình là rất phổ biến và chúng cũng là những nguyên liệu thực cho tác phẩm của Gaston Bachelard “Những vần thơ của không gian” (La Poétique de l’Espace). Bachelard cũng đã từng viết một tác phẩm về hiện tượng học trong những bài thơ về sự mơ mộng (Những bài thơ của sự mộng tưởng- La Poétique de la Rêverie”). Những tác phẩm đó, có rất nhiều điểm liên kết với nghệ thuật của những công trình bất kể chủ đề phi kiến trúc của chúng. Trong văn học, nhiếp ảnh, điện ảnh và hội họa, ngôn ngữ bí mật nơi mà những vùng đất, những công trình xây dựng hoặc những đối tượng ảnh hưởng đến con người thường đóng vai trò quan trọng. Có một vài ví dụ trong văn học cổ điển của Nga, những bộ phim của Alfred Hitchcock và Andre Tarkovski, những bức ảnh của Walker Evan hoặc phần kiến trúc được thể hiện trong tranh vẽ, từ những hình ảnh thời Phục Hưng cho đến những phong cảnh về sự cô đơn siêu hình của Edward Hopper và những căn phòng đầy chứa đầy sự băn khoăn đầy tính dục. Khi một nhà văn, một đạo diễn phim, hay một họa sĩ phải truyền đạt đến mọi người một sự kiện, họ thường sử dụng một bối cảnh hoặc một nơi chốn như một phương tiện để thực hiện sự truyền đạt đó. Nói cách khác, những nghệ sĩ này đang thực hiện công việc thiết kế kiến trúc mà không cần khách hàng, không có sự tính toán kết cấu hoặc giấy phép xây dựng. Sự biểu hiện của kiến trúc trong các môn nghệ thuật khác chính là một cái nhìn thuần khiết (pure looking) theo cái cách mà một đứa trẻ cảm nhận về sự việc, đối với luật lệ trong những nguyên tắc kiến trúc mà không quy định những trải nghiệm hay cách thức mà nó được biểu hiện.

KIẾN TRÚC CỦA KÍ ỨC

Phần kiến trúc bên trong của tâm trí xuất phát từ cảm xúc và những hình ảnh kí ức được xây dựng dựa trên những nguyên tắc của kiến trúc được phát triển bởi những phương thức tiếp cận chuyên nghiệp. Cá nhân tôi cho rằng bản thân tôi không thể nhớ về một khung cửa sổ hay một cánh cửa cụ thể từ trong kí ức tuổi thơ của mình nhưng tôi vẫn có thể ngồi bên cạnh những ô cửa sổ của những kí ức mà nhìn ra một khu vườn đã biến mất từ rất lâu hoặc một khu đất vốn bị bỏ hoang giờ đây được che phủ với những tán cây. Tôi cũng có thể bước qua vô số những cách cửa của kí ức và nhận ra một sự ấm áp trong bóng tối với một thứ mùi của những căn phòng ở phía bên kia cánh cửa.

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)

Hình thái của Cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

Featured

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.


Lời người dịch

Không gian ý niệm”- Lần đầu tiên tôi được nghe đến khái niệm này là khi đang học năm thứ 3 ngành Thiết kế nội thất (sau này khoa đã được đổi tên thành Kiến trúc nội thất), đại học Kiến trúc TP.HCM. Thầy tôi khi ấy đã nói rằng không gian ý niệm chính là đỉnh cao trong thiết kế không gian, thiết kế dựa trên những thứ vô hình (cảm xúc) và truyền đạt nó thông qua những thứ hữu hình (ngôn ngữ thiết kế), như một dạng cầu nối trực tiếp nhất giữa thế giới vật chất hữu hình (không gian vật lý, kiến trúc, nội thất) với thế giới nội tâm vô hình nhưng sâu thẳm bên trong mỗi con người. Khái niệm này đã ám ảnh tôi suốt một thời gian dài và cho đến tận bây giờ. Để theo đuổi giới hạn này, chúng ta trước hết phải có đủ can đảm và liều lĩnh đặt chân vào nơi sâu thẳm nhất trên thế giới- nội tâm con người, nơi mà theo nhà tâm lý học phân tích nổi tiếng người Thụy Sĩ, Carl Jung, chính là:

a vast territory… it was a mystery that challenge the adventuresome with the prospect of rich discovery and frightened the timid with the threat of insanity… the whole world hangs on a thread and that thread is the human psyche.” (Murray, 1998).

một địa hạt mênh mông rộng lớn… nó (tâm lý con người) là một bí ẩn đầy thách thức với những kẻ ưa mạo hiểm cùng với phần thưởng là một sự khám phá to lớn nhưng cũng đồng thời làm những người rụt rè e sợ bởi nguy cơ bị mất trí… cả thế giới được treo trên một sợi chỉ và sợi chỉ đó chính là nội tâm con người

Thế nhưng sau đó, bằng cách nào để có thể tạo ra sự kết nối giữa thế giới vô hình tưởng chừng như xa xăm đó với một không gian xây dựng vật lý khi ngày nay, phần lớn những thử nghiệm trong thiết kế nội thất đều xoay quanh xu hướng và phong cách- những yếu tố bên ngoài, hữu hình và tồn tại ngắn hạn?

6 năm sau, vào năm 2018, khi đang tiến hành nghiên cứu cho luận án Thạc sĩ của tôi tại Anh, câu hỏi này đã bắt đầu được giải đáp nhờ vào bài tiểu luận Hình thái của cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện tượng học trong kiến trúc của Juhani Pallasmaa. Đây là một chương trong cuốn sách Lý luận cho một kỉ nguyên mới trong kiến trúc- Tuyển tập các bài lý luận kiến trúc (Theorizing a New Agenda for Architecture- an Anthology of Architectural Theory) được xuất bản vào năm 1996.

Vậy hiện tượng học (phenomenology) là gì? Hiện tượng học hay triết học hiện tượng là một trong những khám phá mang tính đột phá của triết học phương Tây ở thế kỉ 20. Ở đây, “hiện tượng” (phenomenon) được hiểu là tất cả các hiện tượng của ý thức theo một nghĩa phổ quát.

Thông thường ý thức hướng ra thế giới bên ngoài. Trong đời sống và trong hoạt động khoa học chúng ta xuất phát từ một lòng tin thâm căn cố đế vào sự tồn tại khách quan, không lệ thuộc và ý thức của thế giới xung quanh. Đã đến lúc cần từ bỏ cách đặt vấn đề “có tính chất tự nhiên” này, quay sự chú ý của chúng ta vào thế giới bên trong, vào chính ý thức. Thế giới bên ngoài, thế giới được xem như đối tượng không phải là mối quan tâm cơ bản. Đối tượng của triết học là ý thức – một “siêu việt tính lý tưởng”. Chỉ trong môi trường của tồn tại lý tưởng ấy chân lý mới phát lộ ra cho ta bằng con đường trực giác bản chất. Nội dung của ý thức “thuần túy” cũng là đối tượng của sự nghiên cứu hiện tượng học.” (Triethoc.edu.vn, 2014)

Bài tiểu luận nàyđã gợi mở cho tôi rất nhiều về sự kết nối ý thức giữa con người với không gian sử dụng. Nhìn lại lịch sử phát triển bắt đầu từ thế kỉ 20, ta có thể nhận thấy rằng sự chú ý của phần lớn các ngành, lĩnh vực nghiên cứu đều đổ dồn vào một loạt những thành tựu vĩ đại về khoa học kĩ thuật, công nghệ mà dừơng như bỏ quên đằng sau một vùng đất bí ẩn và nhưng cũng đầy hứa hẹn khác nằm trong chính tâm trí mỗi con người chúng ta. Sự ra đời của triết học, phương pháp luận Hiện tượng học và ứng dụng của nó trong kiến trúc nói riêng và thiết kế không gian nói chung đã giúp đánh thức sự tập trung của người thiết kế vào việc tìm hiểu, nghiên cứu và thiết lập một mối liên hệ sâu sắc từ trong ra ngoài (inside out) giữa con người và không gian sử dụng, không ngừng thúc đẩy giới hạn của thiết kế đến một mức độ sâu sắc và tinh tế hơn rất nhiều.

Để tìm hiểu kĩ hơn về sự hình thành và quá trình phát triển của triết học hiện tượng và hiện tượng học trong kiến trúc, bạn có thể vào đây:

https://kienviet.net/2013/12/11/hien-tuong-hoc-kien-truc/

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

Không gian trải nghiệm Khoảng trống kí ức (Memory void) tại Bảo tàng Do thái, Berlin, Đức

Nội dung bài tiểu luận Hình thái của cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện tượng học trong kiến trúc của Juhani Pallasmaa

Vì sao có rất ít những công trình hiện đại có thể khơi gợi cảm xúc của chúng ta, trong khi gần như bất kì một ngôi nhà vô danh nào ở một thị trấn cũ hay một nông trại khiêm tốn ngoài trời đều có thể đem đến cho con người một cảm giác thân thuộc và thoải mái? Tại sao những nền đá mà chúng ta tìm thấy ở những đồng cỏ um tùm, một kho thóc đổ nát hay một ngôi nhà nổi bỏ hoang đều có thể kích thích trí tưởng tượng của con người trong khi chính những ngôi nhà mà ta ở lại đang bóp chết những sự mơ mộng đó? Những công trình xây dựng trong thời đại ngày nay có thể khơi dậy sự tò mò ở con người nhờ vào khả năng sáng tạo đầy táo bạo nhưng chúng lại khó lòng đem đến cho chúng ta bất kì ý nghĩa nào về thế giới này cũng như sự tồn tại của chính mình.

Ngày nay, có nhiều nỗ lực đang được thực hiện để làm hồi sinh thứ ngôn ngữ kiến trúc đã bị suy yếu thông qua một cách diễn đạt phong phú hơn và làm sống lại những chủ đề lịch sử. Tuy nhiên, dù có một sự đa dạng mạnh mẽ trong cách tiếp cận, nhưng với một cách thể hiện khô cứng mang đậm tính kĩ thuật như trong lĩnh vực xây dựng, thứ mà họ đang cố chống lại, những tác phẩm tiên phong này dường như chỉ đem lại một cảm giác mất mát to lớn về ý nghĩa

Sự kiệt quệ về ý nghĩa nội tại của kiến trúc đã được phân tích kỹ trong rất nhiều bài viết về lí luận kiến trúc gần đây. Một vài tác giả cho rằng kiến trúc của chúng ta quá nghèo nàn về hình thức, một số khác lại cho rằng hình thức của chúng (kiến trúc) thì lại quá trừu tượng hoặc hàn lâm. Từ trên quan điểm của triết học văn hóa, toàn bộ hệ thống chủ nghĩa duy vật khoái lạc (hedonistic materialism) của chúng ta dường như đang đánh mất đi khía cạnh tinh thần, điều mà nhìn chung có thể xứng đáng được duy trì lâu dài.


KIẾN TRÚC NHƯ MỘT TRÒ CHƠI VỚI HÌNH KHỐI

Trong quá trình chuyển đổi thành một chuyên ngành đặc thù, kiến trúc đã dần dần tự tách rời bản thân khỏi nền tảng dự tính ban đầu, trở thành một chuyên ngành ngày càng bị chi phối toàn diện bởi một hệ thống giá trị và luật lệ riêng biệt. Kiến trúc đang dần trở thành một lĩnh vực của công nghệ, nhưng vẫn mạo hiểm tự nhận bản thân là một hình thức biểu đạt tự do của tính nghệ sĩ.

Ngoài ra vẫn có những một bằng chứng bổ sung khác có thể chứng minh rằng kiến trúc đang tự tách rời khỏi nền tảng và mục đích đúng đắn của mình. Ở đây, tôi muốn đề cập đến một góc nhìn về mối quan hệ giữa hình thức kiến trúc và phương thức trải nghiệm kiến trúc. Lập luận của tôi cho rằng quy hoạch, bố trí đang bị biến thành một dạng trò chơi về hình khối theo một cách cực đoan và giá trị thật sự của việc trải nghiệm một công trình đang bị xem nhẹ. Chúng ta đang phạm sai lầm trong suy nghĩ và đánh giá một công trình như một sự tổng hợp cứng nhắc của hình khối, mà không hiểu rằng chúng chính là biểu tượng hoặc sự trải nghiệm của một thực tế khác, một thực tế nằm sau những biểu tượng.

Đã đến lúc chúng ta cần xem xét liệu rằng hình thức hay hình khối về tổng thể liệu có thể khơi dậy những cảm xúc kiến trúc (architectural feeling) hay không. Hình thức có phải là những yếu tố cơ bản duy nhất của toàn bộ kiến trúc không? Và liệu những yếu tố khác của công trình như tường, cửa sổ hay cửa đi có phải là những đơn vị thật sự của cảm xúc kiến trúc không?

NHẦM TƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA ELEMENTARISM (CHỦ NGHĨA SƠ BỘ)

Những tiến bộ của khoa học hiện đại đã bị kiểm soát bởi nguyên tắc của chủ nghĩa sơ bộ (elementarism) và chủ nghĩa cắt giảm (reductionism). Khi xem xet một hiện tượng, người ta thường chia nhỏ nó ra thành những yếu tố cơ bản và các mối liên hệ cơ bản, sau đó đánh giá hiện tượng đó như một sự tổng hợp của các yếu tố này.

Quan điểm của chủ nghĩa sơ bộ cũng chi phối lý luận, giảng dạy và thực hành trong nghệ thuật và kiến trúc. Điều này cũng đồng thời bị giới hạn chỉ cho nghệ thuật của thị giác. Trên nền tảng của hệ tư tưởng được truyền đạt bởi trường Bauhaus, kiến trúc được giảng dạy và phân tích như một trò chơi với hình khối và không gian. Người ta cho rằng đây cách để đạt được một sự kích thích thị giác dựa trên chức năng của nhận thức thị giác được nghiên cứu bởi tâm lý học nhận thức. Một công trình được nhìn nhận như một tổ hợp chắc chắn được xây dựng dựa trên sự lựa chọn của các yếu tố có sẵn mà mất đi sự liên hệ với thực tế về trải nghiệm bên ngoài của chính bản thân công trình, đó là chưa kể đến sự nỗ lực một cách tỉnh táo để phác họa và biểu hiện rõ ràng lĩnh vực của nhận thức của chúng ta.

Thế nhưng chẳng phải một tác phẩm nghệ thuật thật ra chính là sự đối nghịch với toàn bộ ý tưởng về chủ nghĩa sơ bộ sao? Chắc chắn rằng ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật được khai sinh từ tổng thể, từ một ý tưởng kết nối các bộ phận chứ không hề là sự tổng hợp của các yếu tố.

Việc phân tích cấu trúc cứng nhắc của một công trình kiến trúc không phải lúc nào cũng có thể giúp biểu đạt chất nghệ sĩ của một toàn nhà hay việc chúng tạo ra những hiệu ứng này như thế nào.

KIẾN TRÚC CỦA HÌNH TƯỢNG

Tính nghệ sĩ của một tác phẩm nghệ thuật không nằm ở những thứ hữu hình hiển nhiên mà chúng chỉ tồn tại trong nhận thức của người thưởng thức. Do đó, việc phân tích một tác phẩm nghệ thuật chính là nằm ở cái nội quan chân thật nhất thông qua nhận thức ấn định lên nó. Ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật không nằm ở hình dáng mà nằm ở cái hình ảnh được chuyển hóa thông qua các hình khối và những tác động về mặt cảm xúc mà chúng chứa đựng. Hình dáng chỉ tác động đến cảm xúc của chúng ta thông qua cái mà nó muốn biểu đạt.

Do đó, nếu việc giảng dạy và phê bình không cố gắng làm rõ những chiều không gian kiến trúc được truyền tải một cách có ý thức thì họ sẽ khó lòng đạt được bất kỳ thứ gì liên quan tới bản chất nghệ thuật của kiến trúc. Những nỗ lực ngày nay để khôi phục sự giàu có của tính biểu hiện kiến trúc thông qua sự đa dạng của hình dáng thì được dựa trên một sự kém hiểu biết về bản chất của nghệ thuật. Sự giàu có của một công trình nghệ thuật nằm ở sức sống của những hình ảnh mà nó khơi gợi nên. Tuy nhiên sự mâu thuẫn nằm ở chỗ những hình ảnh được sử dụng cho phần lớn các sự diễn dịch này thì lại được khơi gợi thông qua những hình khối đơn giản và nguyên bản nhất (the simplest, most archetypal forms). Sự quay lại của Chủ nghĩa Hậu hiện đại với những chù đề cổ xưa (ancient theme) thì không có đủ lực thúc đẩy bởi vì sự cắt ghép những mô tuýp kiến trúc này đã đánh mất đi sự liên kết tự nhiên chân thật về mặt cảm xúc với bản thân kiến trúc đó.

Ezra Pound đã từng nói rằng âm nhạc sẽ bị suy thoái nếu nó tách rời quá xa khỏi điệu nhảy và thơ ca sẽ héo mòn nếu nó bị tách rời khỏi âm nhạc và câu hát. Tương tự, kiến trúc cũng có nguồn cội riêng, và nếu nó bị tách rời quá xa khỏi nguồn cội đó, kiến trúc sẽ tự đánh mất tính hiệu quả của nó. Việc làm mới một môn nghệ thuật nghĩa là tìm lại phần bản chất sâu thẳm nhất của chính nóThe renewal of an art means rediscovering its deepest essence.

Ngôn ngữ của nghệ thuật là ngôn ngữ của những biểu tượng, thứ ngôn ngữ có thể được đồng nhất với sự tồn tại của chúng ta. Nếu nó thiếu đi sự liên kết với những kí ức về giác quan nằm ở tiềm thức và liên kết với hàng loạt những giác quan khác, thì nghệ thuật sẽ có thể bị hạn chế như một thứ trang trí vô hồn. Sự trải nghiệm của nghệ thuật chính là sự tương tác giữa kí ức được biểu hiện và thế giới của chúng ta. Theo một nghĩa chung thì tất cả mọi hình thức nghệ thuật đều xuất phát từ chính cơ thể của con người. Một nhà viết tiểu luận về nghệ thuật nhận thức, Adrian Stokes, đã chỉ ra rằng:

 “…điều đó là cực kì quan trọng rằng để trải nghiệm ý nghĩa và bản chất của kiến trúc thì sự tác động đó phải được xây dựng dựa trên một sự tương đồng trong thế giới trải nghiệm của người sử dụng.”

(Còn tiếp)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)