Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 5)

Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Di sản và Di sản hóa là gì?
Phần 3Ý nghĩa và việc sử dụng di sản vào đầu và giai đoạn Phong kiến Trung Hoa cho đến thế kỉ 20
Phần 4Sự bảo tồn di sản và Quốc gia Dân tộc Hiện đại (Modern Nation State) ở Trung Quốc
Phần 5: Nội dung chính và giá trị đóng góp của cuốn sách này


Phần 5: Nội dung chính và giá trị đóng góp của cuốn sách này

Từ góc độ quốc gia, di sản trong thời kì Trung Quốc đương đại được xem như một phương tiện để tái xây dựng những giá trị đạo đức và là công cụ để trau dồi bản sắc chung của quốc gia (shared national identity) trước tình trạng bất mãn đang lan rộng đối với chủ nghĩa Marx và sự hoài nghi về Đảng Công Sản (Madsen 2014). Đặt trong bối cảnh lịch sử đã được tóm lược phía trên, cuốn sách này hướng sự chú ý vào những cách thức mà những diễn ngôn lịch sử thanh tẩy (sanitized historical discourse) (được kiểm duyệt chặt chẽ và là những tự sự có chọn lọc về quá khứ) về sự hoài niệm và di sản được sử dụng để gieo mầm một dạng chủ nghĩa dân tộc văn hóa (cultural nationalism) bằng cách (tái) khẳng định những bản sắc của quá khứ. Bằng cách này, những diễn ngôn này có thể được hiểu như một dạng công cụ của quyền lực/kiến thức và sự cai trị (Foucault 1991; Johnson 2016; Wu & Hou 2015), và cách chúng có thể được sử dụng để khẳng định uy quyền chính trị bởi các lãnh đạo trên mọi cấp độ. Theo đó, các chương trong cuốn sách này sẽ trình bày những case studies đa dạng để khắc họa cách thức những phiên bản khác nhau của quá khứ được chọn lọc, (tái) tạo, truyền bá và tiêu thụ cho muc đích đương đại. Mỗi chương sách đều đặt ra những câu hỏi đương thời về: khía cạnh nào của quá khứ được bao gồm trong những tự sự này, quá khức của ai được (tái) trình bày và nhằm mục đích gì, những đối tượng liên quan là ai, và bằng cách nào khái niệm của Trung Quốc về di sản có thể định hướng quá trình tái tạo này? Cuối cùng, họ cũng đặt ra câu hỏi về ý nghĩa của những điều trên trong việc tạo ra nơi chốn (place-making) và việc bảo tồn môi trường xây dựng và tác động của việc tiêu thụ những hình thức tiệt trùng của di sản (sanitized form of heritage) đối với Trung Quốc cũng như phần lại của thế giới là gì?

Bằng cách đặt ra những câu hỏi trên, những chương trong cuốn sách này khám phá những chiến lược của việc quản lý di sản văn hóa mà những lãnh đạo chính trị ở Trung Quốc và những nơi khác sử dụng để trình diễn bản sắc dân tộc của họ (national identities) trên sân khấu quốc tế. Thực tế, ngày càng có nhiều sự công nhận cho rằng di sản văn hóa tập thể (shared cultural heritage) có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc quảng bá sự hợp tác quốc tế, và đồng thời củng cố danh tiếng toàn cầu của một quốc gia (a nation’s global reputation) (Winter 2015). Trong khi những giá trị của văn hóa, khoa học và giáo dục đã được xem như những tiêu chí thiết yếu cho sự thành công, sự văn minh và phát triển của các quốc gia, thì việc sử dụng di sản như một công cụ để quảng bá cho những thành tựu này đã trở thành một chiến lược chính trị đương đại phổ biến (Winter 2014a).Các học giả như Nye (2004) liên hệ điều này như một chiến lược ngoại giao của “quyền lực mềm” (soft power), cho rằng Trung Quốc và các quốc gia khác đầu tư vào việc củng cố quyền lực của quốc gia họ nhằm đạt được những mục đích dân tộc to lớn hơn, bao gồm an ninh quốc gia (national security) và duy trì hòa bình (peacekeeping). Robert Albro (2012) miêu tả điều này như một dạng “trình diễn văn hóa” (cultural display) và Winter (2014a: 335) giải thích rằng những trình diễn văn hóa này được sử dụng để “truyền đạt sự thu hút (affinities), sự gắn kết (bonds), đối thoại (dialogues), sự phụ thuộc (mutuality), và những giá trị khác trong lĩnh vực ngoai giao quốc tế”.

Đồng thời, những phức tạp nảy sinh trong việc khẳng định chủ quyền dân tộc (nationalistic assertion) về quyền sở hữu di sản văn hóa (cultural heritage ownership) trong bối cảnh quốc tế cũng đã được bộc lộ. Ví dụ như trong sự kiện “Zodiac Saga” liên quan tới những đòi hỏi của Trung Quốc về việc trao trả những bức tượng con giáp mạ đồng bị đánh cắp sau sự sụp đổ của Viên Minh Viên (Summer Palace) ở Bắc Kinh năm 1860 (Fotopoulos 2015). Điều mỉa mai ở đây là những bức tượng này do Châu Âu sản xuất nhưng lại bắt chước phong cách Trung Quốc, được trưng bày trong cung điện của Trung Quốc và sau đó bị cướp đi gián tiếp bởi người Châu Âu. Vào đầu thế kỉ 21 khi mà những món đồ này bắt đầu xuất hiện thị trường nghệ thuật quốc tế, chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu phải trao trả chúng như một phần của di sản văn hóa bị cướp đi bởi người Châu Âu. Dựa vào lai lịch đầy nghi vấn của những món đồ được xem như “của Trung Quốc” này, sự khẳng định về chúng một phần của di sản văn hóa Trung Quốc thì có mục đích như một tự sự ẩn dụ (rhetorical narrative) về sự sỉ nhục quốc gia (national humiliation) hơn là một tài sản văn hóa có thể thẩm tra (verifiable cultural patrimony) (Fiskesjö 2010).

Những chương sách được trình bày ở đây đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ của những tài liệu về lời kêu gọi của Trung Quốc đối với sự bóc trần của các giá trị truyền thống của họ và di sản văn hóa sau khi giơ cao khẩu hiệu về kinh tế toàn cầu, ví dụ như những gợi ý về khía cạnh chính trị văn hóa của “Zodiac Saga”. Tương tự, trong khi Winter (2014a: 326), phác thảo trong cuốn sách gần đây của Natsuko Akagawa (2014) để giải thích về phương pháp mà Nhật Bản đang sử dụng việc trình diễn văn hóa như một cách tận dụng chính sách đối ngoại được xây dựng trên “các diễn ngôn về hòa bình” (narrative of peace), những nhà nghiên cứu khác cũng cho rằng Trung Quốc đang củng cố và đầu tư vào di sản với mục đích ngoại giao quốc tế. Kể từ sự tái trỗi dậy của những mối quan tâm về di sản quốc gia năm trong những năm 1980 theo sau sự phá hủy trên diện rộng của những địa điểm lịch sử, đăc biệt là trong thời kì Cách mạng Văn hóa, di sản đã được liên kết chặt chẽ với chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và được định hình bởi khao khát được khôi phục ý nghĩa quan trọng về vị thế lịch sử của nền văn mình “vĩ đại” Trung Hoa. Nói cách khác, Trung Quốc khao khát khắc họa bản thân với bên ngoài như một quốc gia với một quá khứ có bề dày văn hóa và như một nền văn minh có sức ảnh hưởng lên các quốc gia và những nền văn hóa khác (Winter 2014a: 328). Những tuyên bố này được củng cố bởi bằng chứng cho thấy Trung Quốc thúc đẩy các nỗ lực ngoại giao di sản (heritage diplomacy effort)” (Svensson & Maags 2018: 17; Winter 2015), bao gồm việc chủ động tham gia của họ từ những năm 1980 với sự khởi xướng của UNESCO World Heritage. Quá trình sản xuất di sản (heritage- making) được sử dụng như một công cụ để củng cố quyền lực mềm và thông qua đó bản sắc hiện đại (modern identities) có thể được nhào nặn, diễn dịch và tiêu thụ.


Những chương trong cuốn sách này là kết quả của một hội nghị chuyên đề quốc tế về di sản được tổ chức vào tháng 4 năm 2016 ở Tô Châu (Suzhou), tỉnh Giang Tô (Jiangsu), Trung Quốc. Sự kết hợp của các chuyên gia từ các chuyên ngành về lịch sử, nhân chủng học, dân tộc học, quy hoạch đô thị và thiết kế, chính trị, lý thuyết phản biện, văn học và văn hóa thị giác tạo nên một góc nhìn đa ngành sống động về diễn ngôn và thực hành di sản ở Trung Quốc, cho phép một góc nhìn đầy sắc thái và rõ ràng về chủ đề phức tạp này. Những bài viết được mời xoay quanh 3 chủ đề chính: “Những tự sự được thanh trùng (Sanitized Narrative) của di sản”, “Chính trị về di sản”, “Qúa trình thương mại hóa (Commodification) của di sản”. Những bài viết này được lựa chọn dựa trên sự phù hợp với những chủ đề trên, cùng với những đóng góp về lý luận và đặt trong một bối cảnh nghiên cứu rộng lớn hơn.

Phần 1 nói về những quá trình tái cấu trúc, tái tạo và đại diện của di sản ở những bối cảnh khác nhau. Trong Chương 1, Florence Graezer Bideau (Ecole Polytechnique Fédérale de Lausanne, Switzerland) trình bày một sự giới thiệu mang tính khái niệm tới nhiều vấn đề được đề cập trong suốt cuốn sách. Bà sử dụng góc nhìn chuyên môn của nhân chủng học để tập trung vào 2 case studies: một ngọn núi thiêng gần Bắc Kinh và một khu vực đô thị ở Trung Quốc, tập trung vào sự thực thi của những chính sách được kiểm soát bởi nhà nước (institution- driven policies) cũng như sự tác động của những cộng đồng chịu ảnh hưởng và sự xung đột diễn ra giữa họ. Từ góc nhìn của những chính sách công (state policy), chương 2 tranh luận rằng sự tái tạo và tái cấu trúc của các học viện Khổng giáo truyền thống như những địa danh di sản văn hóa đai diện cho một quá khứ của Khổng giáo đã được thanh trùng (sanitized Confucian past), với mục đích nuôi dưỡng bản sắc văn hóa và củng cố sự gắn kết của chủ nghĩa dân tộc. Linda Walton (Portland State University, USA) cho thấy sự đầu tư của nhà nước (state investment) vào những quá trình xây dựng di sản (heritage- making) là cực kì quan trọng, không chỉ đơn giản là việc thu lợi từ di sản mà chúng nên được nhìn nhận như một sự quảng bá về giáo dục cộng đồng (public pedagogy) thông qua việc sử dụng các học viện truyền thống (traditional academy) như một hình mẫu về giáo dục đạo đức có cội rễ trong các giá trị Khổng giáo.

Bài viết của Yingjie Guo (University of Sydney) được xây dựng dựa trên quan điểm này ở chương 3, phân tích sự tái tạo của những di tích tại quê hương của Khổng Tử để cho thấy vị trí của Trung Quốc trong mối quan hệ với di sản đã chuyển hóa từ phủ quyết đến một sự gắn kết chưa từng có với việc bảo tồn di sản. Ông khắc họa mối liên kết chặt chẽ giữa bảo tồn và chủ nghĩa dân tộc, cũng như sự ưu việt của bản sắc chính trị trong quá trình ra quyết định đối với những di tích quan trọng về Khổng giáo. Bằng cách này, ông đã hướng sự chú ý đến hệ tư tưởng chính thống (official ideology) của chủ nghĩa xã hội quốc gia (state socialism), sự tự ý thức về bản sắc quốc gia (national self-identity) và tầm nhìn của Trung Quốc về vị trí của họ trên thế giới. Kristin Bayer’s (Marist College, USA), ở chương 4, giải quyết một biểu tượng quốc tế về cảnh quan ở Trung Quốc, Vạn lý trường thành (Great Wall), thông qua sự đại diện của nó trong các tác phẩm của William Edgar Geil (1865-1924) và gần đây hơn là William Lindesay (b.1956). Tác giả truy dấu bằng phương pháp nào mà ý nghĩa và những biểu tượng của Vạn lý trường thành được sản xuất để vừa vặn với sự tưởng tượng của Trung Quốc và không Trung Quốc (Chinese and non-Chinese imaginings), đề xuất rằng Vạn lý Trường thành là một biểu tượng dễ uốn của di sản văn hóa mà có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau- ngay cả với những vấn đề gây tranh cãi- mối quan tâm, bao gồm cả quốc tế lẫn với người Trung Quốc.

Những chương trên đã tạo tiền đề cho phần 2 “Việc Tạo Ra Bản Sắc: Xây Dựng Quá Khứ, Phân Phối Di Sản”. Trong chương 5, Carol Ludwig (University of Liverpool) và Yi-Wen Wang (Xi’an Jiaotong-Liverpool University) xem xét việc sử dụng có chọn lọc của kí ức và thực hành để tái cấu trúc những phiên bản có chọn lọc của quá khứ. Bảo tàng ngoài trời Beamish ở Durkham, UK và công viên văn hóa thời Tống (Song Dynasty) ở Hàng Châu (Hangzhou) được trình bày như những case studies để so sánh với nhau. Các tác giả sử dụng giáo dục, du lịch và việc tạo ra những bản sắc/ nhân dạng mới như một khung phân tích (hệ phân tích) để hiểu được cách thức khác nhau trong việc phân phối và tiêu thụ di sản văn hóa. Họ cho thấy di sản không chính thức (unauthorized heritage), ví dụ như di sản thương mại được trình bày trong các trường hợp này, thứ mà không cần thiết được tạo ra có chủ đích bởi nhà nước như một phần của AHD, vẫn có thể trở thành 1 phần của nó (AHD), tiết lộ ranh giới đang dần được xóa mờ giữa di sản “chính thức” và không chính thức.

Chương 6 được viết bởi Patrick Wertmann (Institute of Asian and Oriental Studies, Zurich) tương tự, tập trung vào sự phân phối và tiêu thụ của di sản văn hóa bằng cách chứng mình cách thức mà sự phổ biến của di sản văn hóa là một phần chiến lược của chính quyền nhằm củng cố bản sắc văn hóa chung, sự thống nhất xã hội và tinh thần yêu nước giữa những nhóm và tầng lớp khác nhau trong xã hội ở Trung Quốc. Tác giả cung cấp những ví dụ về những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc được đánh bóng thông qua giải trí, giáo dục (giải trí giáo dục- edutainment), sự tạo nên những “trải nghiệm khó quên” và những sự khởi đầu như bảo tàng di động (mobile museum). Ông cho rằng những sự khởi xướng này đã thành công trong việc phổ biến di sản trong khi cùng lúc cho phép truyền đạt đến nhiều đối tượng hơn. Cuối cùng, trong chương này, tập trung vào sự tạo ra, phân phối và tiêu thụ của di sản thông qua các bảo tàng, chương 7 được viết bởi Kenny K. K. Ng (Hong Kong Baptist University) khảo sát hàng loạt các bảo tàng ở Nam Kinh (Nanjing) để chứng tỏ cách thức mà những bảo tàng thuộc thời kì trước và thời kì hiện đại đóng góp vào việc xây dựng nên bản sắc địa phương (local identities) thông qua việc (tái) tạo của quá khứ tại chỗ. Từ đó, ông nhấn mạnh chủ đề của việc tạo ra nơi chốn (place-making) trong việc sáng tạo, phân phối và tiêu thụ di sản.

Phần 3 về Lịch sử, Sự hoài niệm và Di sản: Đô Thị Và Nông Thôn, chọn ý tưởng về nơi chốn, bắt nguồn với với Andrew Law (University of Newcastle). Chương 8 tiết lộ cách mà những diễn ngôn có chọn lọc về lịch sử và sự hoài niệm được sử dụng như một phần của việc tạo ra nơi chốn (place-making) và place-branding, chiến lược cho sự phát triển đô thị cũng như việc xây dựng bản sắc hiện đại Trung Quốc. Tác giả chỉ vào những ví dụ đương thời từ các thành phố ở Thượng Hải (Shang Hai), Vũ Hán (Wuhan) và Tây An (Xian) để chỉ ra lịch sử và sự tưởng tượng của nền Cộng Hòa từ năm những năm 1920- 1930, triều đại giao thương Minh và Thanh (Ming and Qing) và triều đại đế quốc Đường (Tang) đều đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nên lịch sử đô thị bản địa (indigenous urban history) và bản sắc của Trung Hoa hiện đại và tư bản. Những di sản có thật hoặc tưởng tượng này, ông cho rằng, phục vụ như một công cụ quảng bá cực kì quan trọng trong việc tạo ra thương hiệu cho những thành phố của Trung Quốc. Nhưng có lẽ, quan trọng hơn cả là chúng cũng được sử dụng để “hiện thực hóa những tưởng tượng trong hiện tại.” Chuyển đến vai trò của sự hoài niệm và lịch sử trong việc tạo ra di sản ở những vùng nông thôn, Marina Svensson (Lund University, Sweden) phân tích trong chương 9 cách thức mà ở đó, di sản không ngừng được (tái) tưởng tượng ở làng Xinye và cụ thể là cách thức mà việc trình diễn và cách hình thức giải trí trở thành một khía cạnh thiết yếu và được bình thường hóa của quá trình di sản hóa của Trung Quốc.

Trong phần 4, Sự Chiếm Đoạt (appropriation) và Sự Thương Mại Hóa (commodification) của di sản nhóm dân tộc (ethnic heritage) đề cập đến sự tận dụng sắc tộc bởi chính quyền cho sự định nghĩa và xây dựng di sản như một công cụ của sự kiểm soát xã hội và chính trị, và bởi chính các nhóm sắc tộc đó như một hình thức chống trả. Mục đích thứ hai thì được chứng minh bởi Joseph Lawson (University of Newcastle) trong chương 10, trong việc tái chiếm đoạt văn hóa có liên quan đến rượu của nhóm dân tộc Yi như một di sản, xem nó đối nghịch với quan niệm của người Hán Trung Hoa và diễn dịch văn hóa này chỉ đơn giản như một sự tiêu thụ quá mức rượu (vốn bị chỉ trích bởi các nhà nghiên cứu về sức khỏe và quan chức chính quyền). Nghiên cứu này khám phá hàng loạt các tự sự lịch sử (historical narrative) và sự ảnh hưởng của chúng lên các diễn ngôn và thực hành của di sản ngày nay. Điều này được bổ trợ trong chương 11 bởi Melissa Shani Brown và David O’Brien (University of Nottingham) nghiên cứu về sự lí tưởng hóa (idealization) và thương mại hóa của sắc tộc và quá khứ ở Xinjiang. Chương này cũng tập trung vào sự lợi dụng một ngôi làng truyền thống Kazakh để đại diện một sự khắc họa bị lý tưởng hóa về sự hòa hợp sắc tộc của quốc gia- những hình ảnh của sắc tộc bị tóm tắt, tái hiện và phân phối cũng như thương mại hóa và tiêu thụ.

Trong khi các khía cạnh của sự “đổi chiều” di sản ở Trung Quốc đang được ghi chép cẩn thận ở những nơi khác (Blumenfield & Silverman 2014, Maags & Svensson 2018), cuốn sách này đặc biệt chú ý vào sự (tái) trỗi dậy trong một bối cảnh về diễn ngôn và toàn cầu (discursive and global context). Nó cho rằng di sản đang được (tái) tạo, phân phối và tiêu thụ theo nhiều cách khác biệt hay thậm chí thách thức cách hiểu và thực hành về di sản của phương Tây. Thêm vào đó, vai trò và mục đích của của sự tái tạo, phân phối và tiêu thụ di sản đang được mở rộng thành nhiều lĩnh vực mới. Điều này không chỉ liên quan tới giá trị về kinh tế của di sản hay về giáo dục cộng đồng/ tái khẳng định của giá trị đạo đức truyền thống và tư tưởng, mà còn là sự đầu tư và sự gắn kết của bản sắc quốc gia, thanh tẩy và củng cố tinh thần của công dân và gieo giống chủ nghĩa dân tộc văn hóa (cultural nationalism). Ở Trung Quốc và những nơi khác, di sản trở thành một chiến lược chính trị hữu hiệu cho sự ngoại giao quốc tế và quan hệ quyền lực rộng lớn hơn trên diễn đàn quốc tế. Mục đích của cuốn sách này là để tối ưu sự hiểu biết về di sản hóa ở Trung Quốc trong sự giao thoa với phạm vi nội địa, quốc gia và quốc tế, theo dõi động lực của quá trình này bởi vì nó giúp tiết lộ rất nhiều bối cảnh khác nhau, chủ đầu tư và người diễn viên thực hiện và sự phân phối và tiêu thụ của nó.


References

Akagawa N. (2014), Heritage Conservation and Japan’s Cultural Diplomacy: Heritage,
National Identity and National Interest
. London: Routledge.

Albro, R. (2012), ‘Cultural Diplomacy’s Representational Conceit’, 12 March 2012.
[Online]. Available from: http://uscpublicdiplomacy.org/index.php/newswire/
cpdblog_detail/cultural_diplomacys_representational_conceit (accessed
13 June 2017).

Askew, M. (2010), ‘The Magic List of Global Status: UNESCO, World Heritage and
the Agendas of States’
, in Labadi, S. & C. Long (eds.), Heritage and Globalisation,
19-44. London: Routledge.

Bao, J., G. Chen, & L. Ma (2014), ‘Tourism Research in China: Insights from Insiders’,
Annals of Tourism Research 45: 167-181.

Barmé, G. (2009), ‘1989, 1999, 2009: Totalitarian Nostalgia’, China Heritage Quarterly
18: 1-10.

Barr, M. (2011), Who’s Afraid of China? The Challenge of Chinese Soft Power. London
and New York: Zed Books.

Billioud, S. & J. Thoraval (2015), The Sage and the People: The Confucian Revival in
China.
 Oxford: Oxford University Press.

Blumenfield, T. & H. Silverman (2014), Cultural Heritage Politics in China. New
York: Springer.

Bonnici, U. (2009), ‘The Human Right to the Cultural Heritage – The Faro Convention’s
Contribution to the Recognition and Safeguarding of This Human Right’
,
in CoE (ed.), Heritage and Beyond, 53-59. Strasbourg: CoE Publishing.

Bortolotto, C. (2007), ‘From Objects to Processes: UNESCO’s Intangible Cultural
Heritage’
, Journal of Museum Ethnography 19: 21-33.

Byrne, D. (2011), ‘Archaeological Heritage and Cultural Intimacy: An interview with
Michael Herzfeld’
, Journal of Social Archaeology 11 (2): 144-157.

CoE (2011), Action for a Changing Society, Framework Convention on the Value of
Cultural Heritage for Society.
 Strasbourg: CoE Publishing.

Delafons, J. (1997), Politics and Preservation: A Policy History of the Built Heritage
1882-1996. 
London: Spon Press.

Demattè, P. (2012), ‘After the Flood: Cultural Heritage and Cultural Politics in
Chongqing Municipality and the Three Gorges Areas’
, Future and Anterior 9
(1): 48-64.

Denton, K. (2014), Exhibiting the Past: Historical Memory and the Politics of Museums
in Postsocialist China. 
Honolulu: University of Hawai’i Press.

Dikötter, F. (2016), The Cultural Revolution: A People’s History, 1962-1976. London:
Bloomsbury.

Evans, H. & M. Rowlands (2014), ‘Reconceptualizing Heritage in China: Museums,
Development and the Shifting Dynamics of Power’
, in Basu, P. & W. Modest,
(eds.), Museums, Heritage and International Development, 272-294. London:
Routledge.

Fiskesjö, M. (2010), ‘Politics of Cultural Heritage’, in Hsing, Y. & C. Lee (eds.), Reclaiming
Chinese Society: The New Social Activism, 225-245. London: Routledge.

Fiskesjö, M. (2015), ‘Review Essay: The Museum Boom in China and the State Efforts
to Control History’
, Museum Anthropology Review 9 (1-2): 96-105.

Fotopoulos, A. (2015), ‘Understanding the Zodiac Saga in China: World Cultural
Heritage, National Humiliation, and Evolving Narratives’
, Modern China 41 (6):
603-630.

Foucault, M. (1991), ‘Governmentality’, in G. Burchell, C. Gordon, P. Miller (eds.), The
Foucault Effect: Studies in Governmentality, Chicago, IL: University of Chicago
Press.

Graham, B., G. Ashworth, & J. Tunbridge (2000), A Geography of Heritage: Power,
Culture and Economy. 
London: Arnold.

Gruber, S. (2007), ‘Protecting China’s Cultural Heritage Sites in Times of Rapid
Change’, 
Asia Pacific Journal of Environment and Law 253 10: 253-301.

Harvey, D. (2001), ‘Heritage Pasts and Heritage Presents: Temporality, Meaning and the
Scope of Heritage Studies’, 
International Journal of Heritage Studies 7 (4): 319-338.

Harvey, D. (2015), ‘Heritage and Scale: Settings, Boundaries and Relations’, International
Journal of Heritage Studies 21 (6): 577-593.

Herzfeld, M. (2004), The Body Impolitic: Artisans and Artifice in the Global Hierarchy
of Value.
 Chicago and London: The University of Chicago Press.

Herzfeld, M. (2010), ‘Purity and Power: Anthropology from Colonialism to the
Global Hierarchy of Value’,
 Reviews in Anthropology 39 (4): 288-312.

Herzfeld, M. (2014), ‘Intangible Delicacies: Production and Embarrassment in
International Settings’
, Ethnologies 36 (1-2): 47-62.

Hewison, R. (1987), The Heritage Industry: Britain in a Climate of Decline. London:
Methuen.

Ho, D. (2011), ‘Revolutionizing Antiquity: The Shanghai Cultural Bureaucracy in
the Cultural Revolution,
 1966-1968’, The China Quarterly 207: 687-705.

Hobson, E. (2004), Conservation and Planning: Changing Values in Policy and Practice.
London: Spon Press.

Högberg, A. (2012), ‘The Voice of the Authorized Heritage Discourse: A Critical
Analysis of Signs at Ancient Monuments in Skåne,
 Southern Sweden’, Current
Swedish Archaeology 20: 131-167.

Hsu, Y. (2013), ‘Antiquaries and Politics: Antiquarian Culture of the Northern Song,
960-1127’, in A. Schnapp (ed.), World Antiquarianism: Comparative Perspectives,
230-248. Los Angeles: Getty Research Institute.

Ip, H., T. Hon & C. Lee (2003), ‘The Plurality of Chinese Modernity: A Review of
Recent Scholarship on the May Fourth Movement’
, Modern China 29 (4): 490-509.
Johnson, I. (2016), ‘China’s Memory Manipulators’, The Guardian 8 June 2016.
[Online] Available from: https://www.theguardian.com/world/2016/jun/08/
chinas-memory-manipulators (accessed 12 July 2016).

Jokilehto, J. (1999), A History of Architectural Conservation. Oxford: Butterworth
Heinemann.

Lai, G. (2016), ‘The Emergence of Cultural Heritage in Modern China: A Historical
and Legal Perspective’
, in A. Matsuda & L.E. Mengoni (eds.), Reconsidering
Cultural Heritage in East Asia, 47-85. London: Ubiquity Press.

Larkham, P.J. (1996), Conservation and the City. London: Routledge.
Lew, C. (2009), The Third Chinese Revolutionary Civil War, 1945-49: An Analysis of
Communist Strategy and Leadership. London: Routledge.

Ludwig, C. (2013), ‘From Bricks and Mortar to Social Meanings: An Examination
of Local Heritage Designation in England’
, PhD diss., Northumbria University.

Ludwig, C. (2016), ‘From Bricks and Mortar to Social Heritage: Planning Space for
Diversities in the AHD’
, International Journal of Heritage Studies 22 (10): 811-827.

Maags, C. & M. Svensson (eds.) (2018), Chinese Heritage in the Making: Experiences,
Negotiations, and Contestations
. Amsterdam: Amsterdam University Press.

Massey, D. (1995), ‘Places and their Pasts’, History Workshop Journal 39 (1): 182-192.
Matsuda, A. & L.E. Mengoni (eds.) (2016), Reconsidering Cultural Heritage in East
Asia. London: Ubiquity Press.

Meskell, L. (2013), ‘UNESCO’s World Heritage Convention at 40: Challenging the
Economic and Political Order of International Heritage Conservation’
, Current
Anthropology 54 (4): 483-494.

Meskell, L. & C. Brumann (2015), ‘UNESCO and New World Orders’, in L. Meskell
(ed.), Global Heritage: A Reader, 22-42. Somerset, UK: John Wiley & Sons.

Meyer-Bisch, P. (2009), ‘On the “Right to Heritage” – The Innovative Approach of
Articles 1 and 2 of the Faro Convention’
, in CoE (ed.), Heritage and Beyond, 59-67.
Strasbourg: CoE Publishing.

Mydland, L. & W. Grahn (2012), ‘Identifying Heritage Values in Local Communities’,
International Journal of Heritage Studies 18 (6): 564-587.

Nye, J. (2004), Soft Power: The Means to Success in World Politics. New York: Public
Affairs.

Pendlebury, J. (2009), Conservation in the Age of Consensus. London: Routledge.

Pendlebury, J. (2013), ‘Conservation Values, the Authorised Heritage Discourse
and the Conservation-Planning Assemblage’
, International Journal of Heritage
Studies 19 (7): 709-727.

Oakes, T. (2012), ‘Heritage as Improvement: Cultural Display and Contested Governance
in Rural China’
, Modern China 39 (4): 380-407.

Ryan, C. & H. Gu (2009), Tourism in China: Destinations, Cultures, and Communities.
New York & London: Routledge.

Shepherd, R. (2009), ‘Cultural Heritage, UNESCO, and the Chinese State: Whose
Heritage and for Whom?
’, Heritage Management (2.1): 55-80.

Shepherd, R. (2016), Faith in Heritage: Displacement, Development, and Religious
Tourism in Contemporary China. 
London & New York: Routledge.

Shepherd, R. (2017), ‘UNESCO’s Tangled Web of Preservation: Community, Heritage
and Development in China’,
 Journal of Contemporary Asia 47 (4): 557-574.

Shepherd, R. & L. Yu (2013), Heritage Management, Tourism, and Governance in
China: Managing the Past to Serve the Present.
 New York: Springer.

Silverman, H. & T. Blumenfield (2013), ‘Introduction’, in Blumenfield, T. & H.
Silverman (eds.), Cultural Heritage Politics in China, 3-22. New York: Springer.

Sit, V. (2010), Chinese City and Urbanism: Evolution and Development. Hackensack,
NJ: World Scientific.

Smith, L. (2006), Uses of Heritage. London: Routledge.

Smith, L. & E. Waterton (2009), Heritage, Communities and Archaeology. London:
Gerald Duckworth & Co.

Sofield, T. & F. Li (1998), ‘Tourism Development and Cultural Policies in China’,
Annals of Tourism Research 25 (2): 362-392.

Svensson, M. & C. Maags (2018), ‘Mapping the Chinese Heritage Regime’, in Maags,
C. & M. Svensson (eds.), Chinese Heritage in the Making: Experiences, Negotiations,
and Contestations, 11-37. Amsterdam: Amsterdam University Press.

Sykes, O., & C. Ludwig (2015), ‘Defining and Managing the Historic Urban Landscape:
Reflections on the English Experience and Some Stories from Liverpool’
,
European Spatial Research and Policy 22 (2): 9-35.

Taylor, K. (2004), ‘Cultural Heritage Management: A Possible Role for Charters
and Principles in Asia’,
 International Journal of Heritage Studies 10 (5): 417-433.

UNESCO (2003), Convention for the Safeguarding of the Intangible Heritage. Paris:
UNESCO.

UNESCO (2019a), ‘China’. [Online]. Available from: http://whc.unesco.org/en/
statesparties/cn (accessed 22 July 2019).

UNESCO (2019b), ‘What is Intangible Cultural Heritage?’ [Online]. Available
from: https://ich.unesco.org/en/what-is-intangible-heritage-00003 (accessed
12 August 2019).

Verdini, G.F., Frassoldati, & C. Nolf (2017), ‘Reframing China’s Heritage Conservation
Discourse. Learning by Testing Civic Engagement Tools in a Historic Rural
Village’, 
International Journal of Heritage Studies 23 (4): 317-334.

Wang, H. (2012), ‘War and Revolution as National Heritage: “Red Tourism” in China’,
in Daly,
 P. & T. Winter (eds.), Routledge Handbook of Heritage in Asia, 218-233.
London: Routledge.

Wang, S., & M. Rowlands (2017), ‘Making and Unmaking Heritage Value in China’, in
J. Anderson & H. Geismar (eds.), The Routledge Companion to Cultural Property,
258-276. London: Routledge.

Waterton, E. (2010), Politics, Policy and the Discourses of Heritage in Britain. Basingstoke:
Palgrave Macmillan.

Waterton, E., & S. Watson (2013), ‘Framing Theory: Towards a Critical Imagination
in Heritage Studies’
, International Journal of Heritage Studies 19 (6): 546-561.

Winter, T. (2014a), ‘Heritage Conservation Futures in an Age of Shifting Global
Power’,
 Journal of Social Archaeology 14 (3): 319-339.

Winter, T. (2014b), ‘Heritage Studies and the Privileging of Theory’, International
Journal of Heritage Studies 20 (5): 556-572.

Winter, T. (2014c), ‘Beyond Eurocentrism? Heritage Conservation and the Politics
of Difference’
, International Journal of Heritage Studies 20 (2): 123-137.

Winter, T. (2015), ‘Heritage Diplomacy’, International Journal of Heritage Studies
21 (10): 997-1015.

Wright, P. (1985), On Living in an Old Country. London: Verso.

Wu, J. (2006), ‘Nostalgia as Content Creativity: Cultural Industries and Popular
Sentiment
’, International Journal of Cultural Studies 9 (3): 359-368.

Wu, Z. & S. Hou (2015), ‘Heritage and Discourse’, in E. Waterton & S. Watson (eds.),
The Palgrave Handbook of Contemporary Heritage Research, 37-51. New York:
Palgrave Macmillan.

Zhu, Y. (2015), ‘Cultural Effects of Authenticity: Contested Heritage Practices in
China’,
 International Journal of Heritage Studies 21 (6): 594-608.

Người dịch: Lipv

Nguồn:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t04-4-dien-ngon-khong-chinh-thuc-ve-di-san-va-thuc-hanh-tai-trung-quoc/

Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 4)

Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Di sản và Di sản hóa là gì?
Phần 3Ý nghĩa và việc sử dụng di sản vào đầu và giai đoạn Phong kiến Trung Hoa cho đến thế kỉ 20
Phần 4Sự bảo tồn di sản và Quốc gia Dân tộc Hiện đại (Modern Nation State) ở Trung Quốc
Phần 5: Nội dung chính và giá trị đóng góp của cuốn sách này


Phần 4. Sự bảo tồn di sản và Quốc gia Dân tộc Hiện đại (Modern Nation State) ở Trung Quốc

Trong khi cả không gian đô thị và những di tích cổ được sử dụng bởi các vị vua thời đế quốc Trung Hoa để chính thức hóa sự cai trị của họ, một khái niệm hiện đại về bảo tồn di sản trong lĩnh vực công cộng và như một khía cạnh của chính quyền chỉ bắt đầu nổi rõ vào cuối triều Thanh (Qing era) (1644-1911). Cùng với những yếu tố khác của “sự hiện đại”, ý tưởng về bảo tồn di sản như một sự phạm vi của sự cai trị nhà nước được giới thiệu vào Trung Quốc từ phương Tây. Sự khai thác của đế quốc (imperialist exploitation) và sự cướp bóc các di tích lịch sử như các chùa hang của đạo Phật ở Dunhuang bởi các quốc gia phương Tây và Nhật Bản thúc đẩy nhà Thanh đứng lên bảo vệ và bảo tồn di sản văn hóa của Trung Quốc, khởi đầu bằng phong trào đấu tranh cho sự bảo vệ những di tích cổ (Measures for the Protection of Ancient Sites ) năm 1909. Sự phát triển của ý thức cộng đồng và tính chính thống (legislation) để bảo vệ di sản văn hóa được trói chặt vào sự thành lập quốc gia dân tộc ở Trung Quốc, bởi vì ý tưởng về di sản có liên quan trực tiếp đến sự trỗi dậy của quốc gia dân tộc ở Châu Âu (Meskell & Brumann 2015: 23; Evans & Rowlands 2014: 276; Lai 2016: 50-51). Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của nhà Thanh và sự trỗi dậy của phong trào cách mạng theo sau, mãi cho đến năm 1930, Bản báo cáo thường niên thứ hai (policy statement) về sự bảo hộ cho di sản văn hóa mới được đưa ra bởi chính quyền dân tộc (Lai 2016: 72-78). Điều luật trong Bảo tồn các vật thể cổ được nhanh chóng thông qua vào năm 1931 với những quy định liên quan đến bảo tồn, bao gồm Tình trạng của việc bảo tồn những danh lam thắng cảnh, những địa điểm lịch sử quan trọng và những quy định về giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật (the Statute for the Preservation of Scenic Spots, Points of Historical Importance, and Articles of Historical, Cultural, and Artistic Value) (Gruber 2007). Vào năm 1948, một nỗ lực được thực hiện để phân loại các vật liệu di sản (material heritage) của Trung Quốc với danh sách 450 địa điểm trong bản Danh sách thu gọn những di sản kiến trúc quan trọng ở Trung Quốc (A Brief List of Important Architectural Heritages in China) (Shepherd & Yu 2013: 10). Bản kê khai này, là lần đầu tiên ở Trung Quốc, được biên soạn chỉ một thời gian ngắn trước sự sụp đổ của chính quyền Dân Quốc (Nationalist government), kết quả của cuộc nội chiến với phe Cộng Sản. Sự rối ren về chính trị và quân sự đã làm gián đoạn những nỗ lực trước đó cho công cuộc bảo tồn di sản và do đó có một tác động sâu sắc lên sự phát triển của chính sách di sản ở Trung Quốc (Lew 2009).

Theo sau sự thất bại của chính quyền Dân Quốc năm 1949, việc bảo tồn di sản không còn là ưu tiên hàng đầu đối với chính quyền Cộng Sản so với những nhu cầu bức thiết về quân sự, chính trị và kinh tế cho việc thành lập một quốc gia mới. Một khi quyền lực được củng cố và điều luật được ban hành, chính quyền mới đã hỗ trợ các hoạt động khảo cổ để giải cứu các hiện vật của người xưa trong khi cùng lúc tận dụng và sửa đổi những di sản văn hóa được thừa hưởng từ quá khứ. Cổng Thiên Đàng (The Gate of Heavenly Peace) ngay tại lối vào Tử Cấm Thành (Forbidden City) được sử dụng có chủ đích bởi những người Cộng Sản vẻ vang để công bố chiến thắng về việc thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng Mười 1949. Đứng trên di tích mang tính biểu tượng của nhà Thanh và các triều đại phong kiến trước, chủ tịch Mao Trạch Đông vẫy tay chào quần chúng, chứng minh rằng Tử Cấm Thành, nơi trước kia chỉ dành cho giới cầm quyền nay mở cửa cho quần chúng và Trung Quốc thuộc về quần chúng. Trong khi có những di tích từ quá khứ được sử dụng theo cách này để khẳng định sức mạnh Cộng Sản và quyền kiểm soát, chính quyền mới cũng cho phép phá hủy những địa điểm văn hóa với mục đích xây mới những khu tưởng niệm và không gian công cộng. Những khu vực văn hóa ở phía Nam Tử Cấm Thành được phá hủy vào năm 1958- 1959 để xây dựng Đại Lễ đường (the Great Hall of the People) và để mở rộng quảng trường Thiên An (Tiananmen Square) (Shepherd & Yu 2013: 15). Sự phá hủy cũng xảy ra với mục đích phát triển đô thị để đáp ứng lời hứa của chính quyền về việc đáp ứng nhu cầu hằng ngày của quần chúng. Ví dụ, những bức tường trong giai đoạn nhà Minh ở Bắc Kinh được đập bỏ trong quá trình xây dựng hệ thống xe điện trong khoảng giữa những năm 60 (Shepherd & Yu 2013: 15).

Một trong những thông điệp đầu tiên của sự giới lãnh đạo Cộng sản nhằm hướng sự chú ý đặc biệt vào việc quản lý di sản như một lĩnh vực của quyền lực quốc gia (a domain of state power) và một nguồn chính trị và văn hóa tiềm năng (potential political and cultural resource) chính là sự đồng thuận 1961 về chính sách về bảo hộ và quản lý di sản đầu tiên của PRC, những điều lệ bổ sung về bảo vệ và thi hành của di tích văn hóa (Provisional Regulations on the Protection and Administration of Cultural Relics). Chỉ một năm sau đó, 1962, Cục Di tích văn hóa trực thuộc Bộ Văn Hóa đã xuất bản một danh sách các địa điểm văn hóa quốc gia (Shepherd & Yu 2013: 15). Cùng lúc, những thay đổi này được thể hiện thông qua nỗ lực hình thành một hệ thống di sản văn hóa quốc gia cho Trung Quốc. Nỗ lực này bị cắt ngang bởi cuộc Cách mạng văn hóa, với sự khởi xướng của Mao cho một cuộc tấn công chưa từng có vào 4 cái cũ (four olds): lề thói, văn hóa, thói quen và tư tưởng (Dikötter 2016). Thập kỉ từ 1966 đến cái chết của Mao năm 1976 đã chứng kiến sự dỡ bỏ và hủy hoại tất yếu của rất nhiều những di tích lịch sử, bao gồm đền, nhà thờ, đền thờ hồi giáo, như một phương pháp xóa sổ tất cả dấu vết của “suy nghĩ cũ” (old thinking) và “văn hóa cũ” (old culture). Mặc dù vậy, bất chấp những hình ảnh thịnh hành về sự phá hoại và báng bổ trong suốt thời kì Cách Mạng Văn Hóa, vẫn có những nỗ lực thanh công của chính quyền và cá nhân trong việc bảo vệ nhiều khu vực và di tích bằng cách quảng bá giá trị của nó như một công cụ cho chủ nghĩa dân tộc cách mạng (Ho 2011; Evans & Rowlands 2014: 276-277). Mối bận tâm quốc gia (state interest) về di sản văn hóa Trung Quốc tăng lên vào những năm 1980, song hành với sự mở cửa về chính trị và kinh tế diễn ra sau thảm kịch Cách Mạng Văn Hóa. Năm 1982, Trung Quốc xuất bản dự luật đầu tiên về sự bảo hộ di sản văn hóa của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và ba năm sau, Quy định của UNESCO năm 1972 về việc bảo di sản văn hóa và tự nhiên thế giới được Trung Quốc thông qua.

Trong suốt những năm 1980s, khi Trung Quốc du nhập những giá trị và ngôn ngữ toàn cầu của UNESCO, khái niệm “di tích văn hóa” (cultural relic) (wenwu 文物) được thay thế bằng “di sản” (heritage) (yichan 遗产), có nguồn gốc từ những tài sản thừa kế của gia đình. Từ ghép ‘wenhua yichan’ (文化遗产) do đó được sử dụng như những chứng tích lịch sử công cộng hay “di sản văn hóa” (cultural heritage), có vẻ như phù hợp hơn với ngôn ngữ quốc tế được sử dụng bởi các quốc gia thành viên UNESCO (Wang & Rowlands 2017: 268; Fiskejö 2015: 100). Khi sự gia nhập của Trung Quốc vào cộng đồng di sản quốc tế được chính thức thông qua, chính phủ Trung Quốc đã nỗ lực đề cử những địa danh như Vạn Lý Trường Thành, Tử Cấm Thành Bắc Kinh và khu di chỉ người Bắc Kinh (Peking Man) ở Chu Khẩu Điếm vào danh sách di sản thế giới (Shepherd & Yu 2013: 19). UNESCO (2019a) đã liệt 55 di sản văn hóa, tự nhiên và hỗn hợp vào danh sách Di sản thế giới. Chính quyền Trung Quốc giờ đây khẳng định những khu vực này và các di tích khác mang “giá trị Di Sản Thế Giới” (World Heritage value), bất chất sự thật trước đây, một vài trong số đó đã bị tấn công và bôi nhọ trong quá khứ gần đây. Dòng chảy của giá trị được gắn liền với những khu vực trên theo thời gian- từ mối liên hệ tiêu cực với văn hóa phong kiến cho đến việc trở thành những dấu ấn đáng tự hào về một quá khứ rực rỡ- được tạo ra bởi sự nhập nhằng xung quanh việc quốc tế hóa của sự khái niệm hóa di sản có xuất xứ từ châu Âu (UNESCO’s European-derived universalistic conceptualisation of heritage) cùng với sự khẳng định của nhà nước hiện đại Trung Quốc để đại diện cho huyền thoại về một nền văn minh cổ và độc đáo (Evans and Rowlands 2014: 273). Sự mâu thuẫn này thì không quá đặc biệt với Trung Quốc nhưng nó chắc chắn là một tiền đề quan trọng cho việc tìm hiểu cách thức nhà cầm quyền Trung Quốc đàm phán về vị trí của Trung Quốc trên hệ thống cấp bậc quốc tế về giá trị (Herzfeld 2004; Meskell & Brumann 2015). Sự công nhận và chào đón quốc tế là một công cụ quảng bá hữu hiệu để nhấn mạnh những thứ mà di sản văn hóa của Trung Quốc có thể đóng góp cho thế giới và củng cố giá trị của nó như một tài sản về kinh tế. cùng với sự đón nhận của di sản ở trung quốc, nền công nghiệp du lịch đã nở rộ và thu hút khách du lịc quốc tế và nội địa đến những địa điểm này và những nơi khác (Sofield & Li 1998; Ryan & Gu 2009; Bao, Chen & Ma 2014).

Tuy nhiên, một số những câu hỏi liên quan đến “sự xoay chiều di sản” (heritage turn) vẫn đang bị bỏ ngỏ: Bằng cách nào mà những mục tiêu chiến lược nội địa và quốc tế được triển khai và kết hợp với nhau, lợi ích của ai và lợi ích gì đã thúc đẩy sự chọn lựa về di sản hóa và đâu là hậu quả của việc (tái) tạo, truyền bá và tiêu thụ di sản sau đó?

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t04-3-dien-ngon-khong-chinh-thuc-ve-di-san-va-thuc-hanh-tai-trung-quoc/2/

Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 3)

Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Di sản và Di sản hóa là gì?
Phần 3Ý nghĩa và việc sử dụng di sản vào đầu và giai đoạn Phong kiến Trung Hoa cho đến thế kỉ 20
Phần 4Sự bảo tồn di sản và Quốc gia Dân tộc Hiện đại (Modern Nation State) ở Trung Quốc
Phần 5: Nội dung chính và giá trị đóng góp của cuốn sách này


Phần 3. Ý nghĩa và việc sử dụng di sản vào đầu và giai đoạn Phong kiến Trung Hoa cho đến thế kỉ 20

Khái niệm và sự trưng bày di sản đóng vai trò quan trọng trong sự xác nhận của chính quyền về tính hợp pháp và sức mạnh ở Trung Quốc cũng như những nơi khác (Harvey 2001). Ví dụ, vào khoảng đầu thời kì nhà Chu (Zhou era) (1045-256 TCN), sự phát triển của không gian đô thị ở thủ đô phản ánh quyền lực của nhà cầm quyền. Giống như kinh đô của triều đại Chu, những kinh đô của các triều đại tiếp sau đều tiếp tục với cùng một cách thức tổ chức chung: thành phố được bao quanh bởi những bức tường thẳng (rectangular walled city), lâu đài ở vị trí trung tâm, hướng Bắc Nam và có trục trung tâm. Cả hai dạng công trình và sự quy hoạch của thành phố được thiết kế để làm nổi bật tính trung tâm của người cai trị và sức mạnh của họ (Sit 2010: 95-101). Những hiện vật văn hóa cũng thể hiện một vai trò quan trọng mang tính biểu tượng. Giới cầm quyền củng cố sự thống trị của họ bằng cách sử dụng những vật dụng nghi lễ bằng đồng và đá cẩm thạch (jade), con dấu của tòa án, văn thư và ghi chép thuế của tổ tiên hoặc của những người mà họ đã đánh bại” để thể hiện sự chiến thắng và/hoặc củng cố hợp thức hóa địa vị của giới cầm quyền (Shepherd & Yu 2013: 5). Ví dụ, khi người sáng lập ra triều đại nhà Minh (Ming Dynasty) (1368-1644), Chu Nguyên Chương (Zhu Yuanzhang), xâm chiếm nhà Nguyên Mông Cổ (Mongol Yuan Dynasty) (1279-1368), một bộ sưu tập những hiện vật hoàng gia có từ thế kỉ thứ 9 bị lấy mất. Những hiện vật đó sau này được trưng bày đầy trang trọng như một biểu tượng của sức mạnh và tính hợp pháp của chính quyền mới.

Những hiện vật văn hóa có giá trị trong địa hạt cá nhân lẫn công cộng. Trong suốt triều đại Bắt Tống (Song era, 960-1279), những học sĩ tư nhân đã quan tâm tới những chứng tích còn sót lại của quá khứ rực rỡ, đặc biệt là nghiên cứu về những vật dụng nghi lễ bằng đồng và cẩm thạch. Trong khi sự bất đồng giữa những mục đích chính trị và văn hóa đã thúc đẩy các học giả sưu tầm đồ cổ và phân loại chúng, tất cả đều tin rằng có một sự liên quan giữa hiện tại với những di tích còn sót lại của quá khứ (960-1279). Những bản in của những văn tự cổ (rubbings of ancient texts) cũng được sưu tầm và phân loại bởi vì việc xác minh tính chân thực của văn hóa ghi chép là một sự đảm bảo quan trọng có giá trị chính trị sâu sắc. Vì những lý do này, di sản văn hóa, dưới hình thức của những hiện vật cổ, là chủ đề của những mối quan tâm sâu sắc không chỉ cho những vị hoàng đế với mục đích củng cố tính chính thống của sự cai trị của họ mà còn cho những học giả- người tìm kiếm sự liên tục với thế hệ đi trước, như một nguồn thông tin của những ý tưởng truyền thống và cũng như một sự liên kết với tổ tiên của chính họ (Wang & Rowlands 2017: 261).

Thông qua lịch sử của đế chế Trung Hoa, từ thời Hán (Han Dynasty) (207 BCE-225 CE) cho đến đầu thế kỉ 20, khái niệm về di sản văn hóa đã luôn gắn liền chặt chẽ với Khổng giáo (Confucianism). Một ví dụ cơ bản là sự thực hành các nghi thức của Khổng giáo và sự truyền bá của những nghi thức này thông qua chữ viết cũng như việc thực hành. Cả những văn bản của Khổng giáo và những cái đỉnh/vạc (ritual vessel) đều thấm nhuần tư tưởng của thế hệ xưa và các giá trị đạo đức của những bậc hiền triết, người sáng tạo ra nó bởi vì sự thực hành những nghi lễ này đều sử dụng đến cả văn bản và đỉnh để tiến hành hình thức di sản văn hóa này. Sự bảo tồn và truyền bá của di sản văn hóa được điều khiển bởi nhu cầu tiếp cận sự ghi chép chính xác về quá khứ để sử dụng nó như một mô hình cho việc điều chỉnh hành vi trong hiện tại (mặc dù không nhất thiết phải ứng dụng nó một cách cứng nhắc). Việc sử dụng quá khứ trong đạo đức và giáo dục đã không bị mất đi sau sự suy tàn của đế chế Trung Hoa, mặc dù sức ảnh hưởng của Khổng giáo đã bị rút ngắn đáng kể cho đến khi sự phục hưng chính thức của nó vào thời kì Mao (Billioud & Thoraval 2015).

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t04-3-dien-ngon-khong-chinh-thuc-ve-di-san-va-thuc-hanh-tai-trung-quoc/

Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 2)

Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Di sản và Di sản hóa là gì?
Phần 3Ý nghĩa và việc sử dụng di sản vào đầu và giai đoạn Phong kiến Trung Hoa cho đến thế kỉ 20
Phần 4Sự bảo tồn di sản và Quốc gia Dân tộc Hiện đại (Modern Nation State) ở Trung Quốc
Phần 5: Nội dung chính và giá trị đóng góp của cuốn sách này

Phần 2. Di sản và di sản hóa (heritagisation) là gì?

Những nghiên cứu trong cuốn sách này được cấu thành dựa trên sự hiểu biết về di sản như một cấu trúc không ngừng thay đổi (mutable), đa diện (multifaceted), được tạo ra tại một thời điểm bất kì và được tiếp cận cũng như tiêu thụ ở hiện tại (Ludwig 2016). Không đơn thuần là một đối tượng hữu hình cố định (fixed tangible object), di sản là một hệ thống những giá trị có ý nghĩa với những đối tượng khác nhau, ở thời điểm khác nhau, trong bối cảnh khác nhau và phục vụ cho những mục đích khác nhau (Ludwig 2013). Bởi vì di sản không ngừng thay đổi, chúng ta cần phải hình dung di sản như một quá trình (process)- di sản hóa (heritagization)- cũng như là một cấu trúc, một động từ hơn là một danh từ (Harvey 2001; Smith 2006; Maags and Svensson 2018). Để có thể hiểu di sản như một đối tượng của sự thẩm tra phân tích (critical enquiry), chúng ta cần phải khám phá những diễn ngôn (discourse) của di sản thông qua những giới hạn vô hướng (scalar boundaries) (Harvey 2015: 579) và thông qua những lăng kính khái niệm (conceptual lens) của diễn ngôn di sản chính thức/ được thừa nhận (authorized heritage discourse- AHD). AHD là một khái niệm phi chỉ trích (uncritical), tự nhiên hóa và được thực hiện thông qua hình thức nhìn thấy “way of seeing”, mục đích nhằm vào bản chất về vật liệu di sản, được định nghĩa bởi các “chuyên gia” (Smith 2006). Có nguồn gốc gắn liền với sự ra đời của đạo đức về sự bảo tồn (conservation ethic) vào thế kỉ 19 ở phương Tây, AHD đã loại bỏ “tất cả các vấn đề mang tính mâu thuẫn, đối nghịch hoặc không cốt lõi của di sản” (Smith 2006: 11). Tính chất loại trừ này đã giúp củng cố những đại diện tư tưởng (ideological representation) của di sản, nhằm phục vụ chính cho phần lịch sử danh giá/ được đồng thuận (elite/ consensus history), chủ nghĩa dân tộc (nationalism), sự hữu hình (tangibility), tuổi thọ (age) và giá trị thẩm mỹ (aesthetics). Ngoài ra, nó còn được miêu tả như một dạng “self-referential” discourse (diễn ngôn tự liên hệ), “ưu ái sự tưởng niệm (monumentality) và sự quy mô tầm vóc to lớn (grand scale), những hiện vật, địa danh bẩm sinh có giá trị gắn liền với bề dày lịch sử, đánh giá của các chuyên gia về khoa học/ thẩm mỹ, sự công nhận của xã hội, và sự xây dựng của quốc gia” (Smith 2006: 11). Do đó, AHD được chống đỡ bởi một hệ thống ý tưởng quyền lực về định nghĩa của di sản và những ý tưởng này đóng vai trò kim chỉ nam cho những quá trình ra quyết định của chuyên gia và sự thích nghi (Ludwig 2016). Ngược lại với AHD và đồng thuận với những nghiên cứu phê bình gần đây, chúng tôi nhìn nhận di sản là một đối tượng phức hợp (complex), đa tầng (multi-layered) và gắn bó chặt chẽ với những ý nghĩa, sự liên kết và cảm xúc mang tính xã hội. Do đó, nó cùng lúc được cấu thành từ những đối tượng hữu hình, những vật thể di sản được xây dựng (built heritage objects) và đồng thời những di sản phi vật chất và sự thừa nhận mang tính cảm xúc (affective register) (Waterton & Watson 2013).


Khái niệm về di sản phi vật thể (intangible heritage) được chính thức công nhận bởi UNESCO như một hạng mục độc lập về di sản vào năm 2003, cùng với Quy ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa phi vật thể. Đây là kết quả của những chỉ trích ngày càng lớn bởi những câu hỏi từ cộng đồng bị ảnh hưởng (affected community) và những câu hỏi từ những học giả về di sản về mối quan tâm của UNESCO với tầm nhìn về tính truyền thống, tinh hoa và hữu hình như đã đề cập ở trên, và hậu quả của việc phớt lờ những tiếng nói từ cộng đồng yếm thế (marginal voices) (Smith and Waterton 2009; Bortolotto 2007). UNESCO (2019b) định nghĩa Di sản Văn hóa Phi vật thể như “truyền thống và những hình thức thể hiện được truyền qua các thế hệ, ví dụ như truyền thống truyền miệng (oral tradition), nghệ thuật biểu diễn (performing arts), tập quán (social practices), nghi thức (rituals), các sự kiện lễ hội (festive events), những tri thức (knowledge) và thực hành (practices) có liên quan đến bản chất và hệ thống kiến thức và kĩ năng dùng để sản xuất ra những nghề thủ công truyền thống (traditional crafts)”. Sự bao hàm của di sản văn hóa phi vật thể trong chương trình bảo tồn quốc tế, do đó, mang ý nghĩa “nhìn nhận di sản không chỉ là những kiệt tác được thần thánh hóa (a consecrated masterpiece) của quá khứ cần được tôn kính và bảo tồn, mà còn là những không gian mang tính biểu tượng và những không gian sống” (Bortolotto 2007: 21).

Di sản phi vật thể, do đó, chính là hoạt động của con người. Cách hiểu này về di sản giúp định hướng việc tái sản xuất và chuyển giao hoạt động. Việc này cũng khác biệt hoàn toàn với những quy chuẩn về bảo tồn của thế kỉ 19 xuất phát từ sự tự nhiên hóa và gắn liền với thị giác (embedded “way of seeing) như đã được đề cập ở trên. Do đó, sự diễn giải này có tác động quan trọng đến những ứng dụng tiếp nối của những tiêu chí về bảo tồn truyền thống được dùng để phân định di sản. Ví dụ, có một vấn đề nổi bật là về sự xác thật (authenticity). Việc xem xét liệu di sản có phải là xác thực (authentic) theo cách truyền thống thì liên quan tới sự nguyên bản (genuineness), được quyết định bởi những chuyên gia, kiểm chứng bởi các bằng chứng khoa học để công nhận rằng liệu cái nguyên liệu gốc (original fabric) có đủ nguyên vẹn hay không (Taylor 2004: 430), đối nghịch với một dạng của việc tu bổ giả tạo (fake restoration) (Larkham 1996; Hobson 2004; Pendlebury 2009). Nhìn chung, có nhiều vấn đề từ cách tiếp cận thực chứng này (positivist approach) cho đến sự hợp thức hóa của các tài sản di sản (Ludwig 2016) và những vấn đề này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh khu vực châu Á- Thái Bình Dương (Verdini et al. 2017). Ở đây, ngược lại với châu Âu, ví dụ, kiến trúc được “xây dựng cơ bản bởi những vật liệu dễ bị tiêu hủy và dễ vỡ như gỗ… và cần phải tu sửa định kì” (Zhu 2015: 597). The Nara Document on Authenticity (1994)- đã giúp giải quyết vấn đề này một cách đáng tin cậy bằng việc công nhận tính đa dạng (plurality) của truyền thống văn hóa (cultural traditions) và kêu gọi những tiêu chuẩn linh hoạt hơn về tính chân thật (authenticity) (Verdini et al. 2017). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề trong việc áp đặt ý tưởng của di sản phi vật thể vào một mô hình được hình thành lâu đời (các chiến dịch cũng như tư duy lí tính) về thực hành di sản mang tính truyền thống và nó cũng gắn liền sâu sắc với những cơ sở lý luận về bảo tồn (Ludwig 2016; Also see Delafons 1997 and Jokilehto 1999). Quả thực, có hàng loạt các học giả đã lên tiếng chỉ trích sâu sắc về sự phân chia quá rạch ròi giữa vật liệu với biểu tượng, vật thể và phi vật thể (Byrne 2011: 147). Ví dụ như Herzfeld (2014: 48), cho rằng sự phân chia này hàm ý “đó là hai khái niệm độc lập và phủ nhận lẫn nhau”, điều mà ông cho rằng không những không hữu dụng mà về mặt bản chất là không thể (Byrne 2011: 155).

Sự công nhận và cởi mở đầu tiên, được tạo ra bởi sự phân chia chính thức giữa vật thể và phi thể từ UNESCO, sau đó đã nhanh chóng biến thành một sự phân đôi (dichotomy) rắc rối và nhập nhằng. Thêm vào đó, nếu như có một câu hỏi về bản chất, ví dụ như, đó là gì, như đối với di sản vật thể, Herzfeld cho rằng câu hỏi quan trọng là “ai là người được phép quyết định đó là gì” (Byrne 2011: 156). Dĩ nhiên đây là một chủ đề đòi hỏi nhiều tranh luận, đơn giản vì con người định giá sự vật theo những cách khác nhau, với lý do khác nhau. Herzfeld (2004) giải thích điều này thông qua một khái niệm gọi là “a global hierarchy of value” (hệ thống cấp bậc toàn cầu của giá trị), nơi mà chỉ có những di sản được “chấp nhận chính thức” được vật chất hóa (reified)- chứ không phải là những truyền thống dân gian (folklore) hoặc loại truyền thống đã tạo nên culturalintimacy của môt quốc gia (những lời nói đùa, bài hát hoặc câu chuyện khiếm nhã được xem như một hình thức tiềm tàng của sự nhạo báng quốc gia) (Byrne 2011: 148).

Như một người kế thừa về mặt ý tưởng của sự thực dân hóa (colonialisation), hệ thống cấp bậc toàn cầu về giá trị, do đó, quyết định “những truyền thống khác nhau và những văn hóa tri thức (intellectual cultures) sẽ được coi trọng như thế nào (Herzfeld 2010: 296). Cũng giống như những xung đột xung quanh di sản vật thể, sự thêm vào của di sản phi vật thể chỉ thêm vào một tầng lớp khác của sự chủ quan và mơ hồ cho hệ thống giá trị này, thứ mà Herzfeld cho rằng nó thuộc bản chất cơ bản của người cầm quyền. Trong khi sự chuyển dịch toàn cầu, từ cách tiếp cận vật chất, mang tính lưu trữ (tangible, archival approach) sang một hướng phi vật thể và tập trung vào quá trình (intangible, process-oriented) của di sản, đã đánh dấu một sự thay đổi về định hướng cho AHD (Bonnici 2009; Meyer-Bisch 2009; CoE 2011; Sykes & Ludwig 2015; Ludwig 2016; Svensson & Maags 2018). Đồng thời nó cũng tạo tiền đề cho một góc nhìn mới với sự coi trọng mới đối với những thực hành văn hóa ở Trung Quốc và những nơi khác (Svensson and Maags 2018: 23), đó đồng thời cũng là một sự chuyển dịch nền tảng trong quyền lực cơ bản của AHD (Smith 2006: 106-114).

Thêm vào đó, trường hợp của di sản vẫn cần được nghiên cứu bằng cách sử dụng một diễn ngôn phù hợp về di sản được công nhận trong một khung quy chuẩn vẫn còn mơ hồ về giá trị di sản. Có lẽ, quan trọng hơn cả, chúng cần phải bổ trợ cho những mối bận tâm và ưu tiên hiện tại của quốc gia.

Mặc dù có bản chất và lịch sử phức tạp, gây tranh cãi, AHD, do đó, vẫn cung cấp một khởi điểm lý luận hữu ích, và hàng loạt những nghiên cứu đã sử dụng nó như một công cụ giúp khám phá và tìm tòi những phân tích quốc tế (Waterton 2010; Högberg 2012; Mydland & Grahn 2012; Harvey 2015; Ludwig 2016). Nhưng những người khác cũng đã chỉ ra những giới hạn về mặt khái niệm của AHD và cho rằng việc sử dụng nó như một phương pháp lí luận phản biện đã làm đảo ngược sự chú ý từ những sự kiện quan trọng đang tiếp diễn và vai trò chính trị của những quốc gia dân tộc- chứ không chỉ đơn giản là của giới hàn lâm- như một nhà đầu tư (skateholder) trong việc xây dựng nó (Svensson & Maags 2018: 16; Herzfeld 2004; Askew 2010; Meskell 2013). Đây là một sự cân nhắc cực kì quan trọng trong việc hiểu rõ lý thuyết và thực hành của AHD ở Trung Quốc, trong khi ghi chép và phân tích sự thực hành ở Trung Quốc hứa hẹn một góc nhìn lý luận phức tạp hơn.

Được xây dựng dựa trên góc nhìn về vật liệu của phương Tây, AHD, do đó, là một cấu trúc hữu hiệu trong việc làm sáng tỏ những diễn ngôn dân tộc hóa (nationalistic discourse) trong, của và cho di sản (Waterton & Watson 2013) và cũng để tháo gỡ những căng thẳng tất yếu giữa những sự kỉ niệm về văn hóa và bản sắc giữa cấp độ nhà nước (state-led) và từ dưới lên (bottom- up) (Svensson & Maags 2018). Ví dụ, trong trường hợp của UK, việc định nghĩa AHD tương đối rõ ràng nhất quán, bởi vì khái niệm này được lập lại nhiều lần trong các văn bản hành pháp và hành chính. Do đó, nó cung cấp một sự tương phản đặc trưng so với phiên bản “không chính thức” (unauthorized), thay thế, thiểu số hay thứ cấp về di sản. Hệ quả là những phiên bản này có thể trở thành yếm thế (marginalised) hoặc bị loại trừ (excluded). Thực tế, mặc dù về truyền thống AHD được dựa trên triết lý nặng về bảo tồn mà bỏ qua các sắc thái và các sự kêu gọi điều chỉnh (Pendlebury 2013) thì nó vẫn còn tồn tại rất phổ biến trong hoạt động thực hành bảo tồn ở phương Tây (Ludwig 2016). Trong khi đó, việc ứng dụng AHD vào bối cảnh ở Trung Quốc thì phức tạp hơn, một phần vì tính quy mô và sự đa dạng khu vực. Mặc dù vậy, ngay từ thời điểm thành lập của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, đã có một loạt những cơ quan quốc gia (state agencies) chịu trách nhiệm cho việc phát triển và thực hiện những chính sách chính thức về việc bảo vệ và bảo tồn di sản văn hóa của Trung Quốc. Hiện tại, cơ quan hành chính quốc về Di sản văn hóa (SACH) quản lý các địa điểm di sản và bảo tàng ở mức độ quốc gia, địa phương và khu vực thông qua quốc gia. Cơ quan này cũng đồng thời giám sát việc ứng tuyển cho danh hiệu Di sản văn hóa thế giới ở mức độ toàn cầu. Từ năm 2004, toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc xây dựng và di sản ở mức độ quốc gia và địa phương bắt buộc phải tuân theo quy trình phê duyệt, lên kế hoạch và xây dựng dưới sự kiểm soát của SACH. Mặc dù các quan chức và chuyên gia thành lập nên SACH có thể được xem như là đại diện ủy quyền quốc gia về AHD, những chương trong cuốn sách này tập trung vào sự đa dạng trong định nghĩa có tổ chức (institutional) và phi tổ chức (non-institutional) về di sản và cách tiếp cận trên khắp Trung Quốc, phản ánh sự khác biệt về địa lý cũng như vùng miền. Những nghiên cứu này làm rõ những thứ nên được định nghĩa là, mượn một khái niệm của Pendlebury (2013), một sự “tổ hợp” (assemblage) của các AHD. Trong sự thiếu vắng một AHD duy nhất và được định danh vững vàng, sự tập hợp của những diễn giải và đại diện từ địa phương và các nhóm không phải tinh hoa (non- elite groups) có thể thay thế phiên bản AHD được công nhận và sử dụng bởi SACH và các cơ quan tương ứng. Nói cách khác, chúng tôi cho rằng AHD ở Trung Quốc nên được đặc trưng bởi một mức độ tương đối cao về sự đa dạng và linh hoạt.

Trong khi một trong những thông điệp cơ bản trong những chương sách là một nỗ lực “tập thể” (hoặc có khuynh hướng mạnh mẽ) về bảo tồn, tái xây dựng và thậm chí tái tạo (reinvent) di sản ở Trung Quốc ở mọi mức độ không gian, chiến dịch cho việc bảo tồn di sản đã và đang được định hướng và tổ chức bởi nhà nước với những mục đích cụ thể (sẽ được thảo luận chi tiết bên dưới) và sự quản lý di sản dưới sự kiểm soát của nhà nước phần lớn dưới diễn ra từ trên xuống và không dân chủ (undemocratic). Tuy nhiên, chúng tôi chỉ ra những căng thẳng trong sự kết hợp giữa những người đầu tư (stakeholders), cung cấp những ví dụ để chứng minh rằng sự nhiệt tình cùng lúc với sự khởi đầu diễn ra từ dưới lên (bottom-up) hay ở mức độ dân dã (grassroot level) trong nhiều trường hợp là quan trọng tương đương, chỉ ra rằng các nhân tố khác cũng tham gia rất nhiều vào quá trình di sản hóa và quá trình tạo ra một tổ hợp AHD phát triển không ngừng cho Trung Quốc.

Bản chất và ý nghĩa của di sản tiếp tục là một chủ đề gây nhiều tranh cãi, và sự ứng dụng đương đại của nó cũng là chủ đề cho một lĩnh vực đang mở rộng của những câu hỏi học thuật. Sự mở rộng này bao gồm “critical heritage studies”, trào lưu để quảng bá di sản như một địa hạt cho phân tích chất vấn, được phát triển một phần để đáp ứng sự phát triển của nền công nghiệp di sản toàn cầu (global heritage industry) (www. criticalheritagestudies.org; Maags & Svensson 2018: 11-12). Sự gia tăng về số lượng nghiên cứu cho thấy di sản tạo nên một phần trong tổng thể vốn lãnh thổ/ giá trị lãnh thổ (territorial capital) của một nơi chốn (Sykes & Ludwig 2015: 9) và đóng vai trò quyết định trong việc hợp thức hóa và tổng hợp các bản sắc hiện tại (Massey 1995). Những yếu tố lịch sử được lựa chọn cho việc tái sản xuất, phổ biến và tiêu thụ tiết lộ nhiều về sức mạnh/ sự ảnh hưởng xã hội, kinh tế và chính trị của di sản lên thế giới đương đại. Cụ thể hơn với Trung Quốc, các nhà nghiên cứu đã đặt ra những câu hỏi về việc sử dụng lịch sử, sự hoài niệm và di sản của chính quyền Mao trong việc xây dựng nên những bản sắc Trung Hoa và tính chủ quan (Wu 2006; Blumenfield & Silverman 2013; Maags & Svensson 2018). Những chương trong cuốn sách này chỉ ra những câu hỏi liên quan đến sự sản xuất và thực hành của một AHD tại Trung Quốc, tác động xã hội, chính trị và kinh tế của nó cũng như những xung đột giữa mục tiêu và ưu tiên của chính quyền, chuyên gia và cộng đồng địa phương thông qua hàng loạt những chủ đề liên kết với nhau: những khái niệm về sức mạnh và tính hợp thức hóa, (tái) khẳng định bản sắc, sự giáo dục cộng đồng (public pedagogy), giáo dục đạo đức, sự đô thị hóa và sự phát triển kinh tế.

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t04-2-dien-ngon-khong-chinh-thuc-ve-di-san-va-thuc-hanh-tai-trung-quoc/

Diễn ngôn (không) chính thức về di sản và thực hành tại Trung Quốc (Phần 1)

Featured

[Lời người dịch]

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, các diễn đàn kiến trúc đang trở nên sôi động hơn với hàng loạt những sự kiện văn hóa có liên quan đến chủ đề di sản. Rất nhiều các hội thảo chuyên ngành, sự kiện về di sản được tổ chức tại các thành phố lớn và đặc biệt thu hút sự chú ý không nhỏ của giới kiến trúc, từ sinh viên chuyên ngành cho đến kiến trúc sư, nhà thiết kế và chuyên gia cùng tham gia trao đổi và tranh luận sôi nổi. Đối tượng chính trong những tranh luận về di sản ở Việt Nam thời gian gần đây tập trung chủ yếu vào các công trình kiến trúc thời kì Thuộc địa với câu hỏi xoay quanh việc nên đập bỏ hay bảo tồn. Tôi cho rằng đây là tín hiệu đáng mừng khi giới thiết kế kiến trúc đang có khuynh hướng tiến sâu hơn vào các vấn đề thực tế mang tính xã hội văn hóa mà lâu nay vốn ít được coi trọng. Dưới góc độ của người thiết kế không gian nội thất, mối quan tâm cơ bản của tôi được xây dựng dựa trên sự tương tác của con người với những không gian “bên trong”, môi trường nền tảng cho hầu hết các hoạt động của con người. Mối liên hệ đó được tạo ra và lưu trữ thông qua kí ức cá nhân và tập thể. Kí ức cá nhân hay tập thể đồng thời cũng là một từ khóa phổ biến trong những buổi thảo luận về vai trò của di sản với cộng đồng, dưới góc độ cá nhân.

Ở góc độ xã hội, tam giác khái niệm “di sản- bản sắc- kí ức” là một nhân tố quan trọng giúp định hình tính chất của một cộng đồng. Do đó, việc sử dụng khái niệm “di sản” không thể chỉ gói gọn trong một bối cảnh hẹp cả về thời gian lịch sử lẫn không gian cùng những cách tiếp cận đơn ngành (thiết kế, kiến trúc, quy hoạch). Đồng thời, xu hướng thế giới trong sự thay đổi về định nghĩa của di sản cũng như mục đích của việc bảo tồn đã cho thấy rằng: việc bảo tồn quá khứ không còn là mục đích cuối cùng, mà quan trọng hơn cả là phương pháp tận dụng quá khứ để kiến tạo nên bản sắc đương đại. Do đó, câu hỏi lớn trong vấn đề bảo tồn di sản không chỉ là “đập bỏ hay giữ lại” mà nên là “mục đích tồn tại và giá trị thực tiễn của chúng với xã hội đương đại”.


Trong chuỗi bài dịch lần này, tôi muốn chia sẻ đến các bạn cuốn sách The Heritage Turn in China- The Reinvention, Dissemination and Consumption of Heritage, chủ biên bởi Carol Ludwig, Linda Walton và Yi-Wen Wang, xuất bản năm 2020. Cuốn sách này là tuyển tập các bài nghiên cứu độc lập về việc ứng dụng và thực hành di sản ở Trung Quốc trong thời kì hiện đại dưới góc nhìn và phân tích của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và quốc tế đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau.

Tôi cho rằng, dựa trên một số sự tương đồng nhất định về lịch sử, văn hóa và chế độ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc, những nghiên cứu phân tích về di sản ở Trung Quốc có thể cung cấp cho chúng ta những case study, hướng tham khảo cụ thể và gần gũi hơn so với những tham khảo đến từ các quốc gia phương Tây. Điểm khác biệt nổi bật trong cách tiếp cận đương đại của Trung Quốc với vấn đề di sản (so với các nước phương Tây) nằm ở việc nhìn nhận bảo tồn di sản không chỉ đơn thuần là việc gìn giữ các di tích kiến trúc từ quá khứ mà còn là cách thức linh hoạt tận dụng chúng như một công cụ quyền lực trong việc kiến tạo/ tái tạo nên bản sắc xã hội đương đại và vị thế văn hóa của quốc gia trên bản đồ thế giới. Cách tiếp cận này vẫn còn gây nhiều tranh cãi trong giới chuyên môn về tác động lâu dài trên góc độ văn hóa, xã hội nhưng đồng thời, chúng cũng đã và đang đem lại cho Trung Quốc những lợi ích to lớn về mặt kinh tế, chính trị và văn hóa trong những thập kỉ vừa qua. Thông qua những góc nhìn phản biện đa chiều này, tôi hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ vào các xu hướng di sản ở Việt Nam hiện nay.

Thông tin chi tiết về sách ở đây:
https://www.degruyter.com/document/doi/10.1515/9789048536818/html

Bài dịch (Un)Authorised Heritage Discourse and Practice in China là phần mở đầu của cuốn sách, được viết bởi Carol Ludwig và Linda Walton, nhằm đưa ra một cái nhìn khái quát sơ lược về khái niệm diễn ngôn di sản chính thức/ được thừa nhận– Authorised Discourse Heritage (AHD) của phương Tây và sự khác biệt trong cách ứng dụng khái niệm này trong bối cảnh xã hội Trung Quốc đương đại.

Bài dịch gồm 5 phần:
Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Di sản và Di sản hóa là gì?
Phần 3Ý nghĩa và việc sử dụng di sản vào đầu và giai đoạn Phong kiến Trung Hoa cho đến thế kỉ 20
Phần 4Sự bảo tồn di sản và Quốc gia Dân tộc Hiện đại (Modern Nation State) ở Trung Quốc
Phần 5: Nội dung chính và giá trị đóng góp của cuốn sách này


Phần 1: Giới thiệu

Tập sách này tập trung vào những diễn ngôn và thực hành về di sản (heritage discourse and practice) ở Trung Quốc (TQ) xuất phát từ xu hướng “heritage turn” bắt đầu từ những năm 1990s (Madsen 2014; Denton 2014). Nhờ vào việc sử dụng cách tiếp cận đa ngành cùng với những case study đa dạng, những tác giả đóng góp bài viết cho tập sách này đã chỉ ra những phương thức lựa chọn, tái tạo (re-invented), truyền bá và tiêu thụ những phiên bản cụ thể khác nhau của quá khứ nhằm phục vụ cho những mục đích đương thời (contemporary purpose). Những nghiên cứu này phân tích cách thức mà chính quyền TQ tận dụng di sản không chỉ cho mục đích du lịch, giải trí, giáo dục và thương mại mà còn là một phần của những chiến lược chính trị rộng lớn hơn cả về mức độ quốc gia lẫn quốc tế. Đồng thời, những nhà nghiên cứu cũng cho rằng chính quyền TQ sử dụng những chế độ khác nhau của sự thống trị di sản (heritage governance) để xây dựng nên một sự hiện đại mới/ bản sắc mới nhằm hỗ trợ cho sự hợp pháp chính trị (political legitimacy) và khẳng định vị thế siêu sức mạnh quốc tế của mình.

Cả trước và sau sự thành lập của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (the People’s Republic of China- PRC) năm 1949, quan điểm về di sản văn hóa đã có sự thay đổi lớn: chuyển đổi từ việc bảo tồn cho đến hành động tiêu hủy có chủ đích và sau đó là tái cấu trúc. Mặc dù sự kiện cách mạng văn hóa Cultural Revolution (1966-1976) được biết đến như những cuộc tấn công bạo lực nhằm vào con người, nơi chốn và vật chất có liên quan đến quá khứ “phong kiến” (feudal past), thực tế là trước đó khá sớm vào thế kỉ 20, đặc biệt trong phong trào Ngũ Tứ (the May Fourth Movement) (1919), những khía cạnh về di sản văn hóa của Trung Quốc đã từng bị chỉ trích và phủ nhận như một dạng yếu kém về mặt chính trị trong thời kì hiện đại (Ip, Hon & Lee 2003). Trong suốt 30 năm đầu tiên của PRC, trong khi quá khứ tiền cách mạng là đối tượng bị phê phán thì phần lớn những sự kiện cách mạng, con người và nơi chốn lại được ca tụng, ví dụ như việc xây dựng bảo tàng Cách mạng Yan’an năm 1950, dù rằng khi ấy khái niệm “Red Tourism” ở những địa danh liên quan đến lịch sử cách mạng vẫn chưa trở thành hiện tượng cho đến những năm 1990s (Wang 2012; Denton 2014: 214-242). Tuy nhiên, quá khứ tiền cách mạng đã thu hút sự quan tâm tích cực từ những nhà lập pháp vào những năm 1980, khi họ bắt đầu nhìn nhận di sản văn hóa Trung Hoa về cơ bản là tài sản được quản lý và phục vụ cho lợi ích quốc gia. Sự ủng hộ của chính quyền và những chính sách về di sản văn hóa sau đó đã trở thành một khía cạnh tiềm năng cho sự thống trị. Tuy nhiên, từ những năm 1990, cùng với những nỗ lực thực hành bảo tồn di sản, những dự án về phát triển đô thị và những dự án công cộng có quy mô khổng lồ như Đập Thủy điện Tam Hiệp (Three Gorges Dam) lại thường làm trật bánh sự bảo hộ cho những khu vực di sản văn hóa (Demattè 2012). Những dự án đó cũng đồng thời thay thế những cộng đồng địa phương, phản ánh sự mâu thuẫn giữa mục tiêu phát triển kinh tế (bao gồm lợi ích cho giới cầm quyền) và sự bảo tồn di sản văn hóa (Shepherd 2016: 91-120). Vào những năm 2000, sự căng thẳng giữa những mục tiêu quốc gia đối lập đã phải đối diện với những áp lực quốc tế trong việc duy trì vị thế quyền lực quốc tế (world power). Đây là một khía cạnh mà sự đóng góp của Trung Quốc với di sản văn hóa thế giới đã được ghi nhận thông qua sự gia tăng nhanh chóng về số lượng của những địa danh được công là Di Sản Văn Hóa thế giới bởi UNESCO (Shepherd 2009; UNESCO 2019a; Silverman & Blumenfield 2013: 5).

Nằm trong xu hướng hiện nay của thế giới về diễn ngôn di sản (heritage discourse), cụ thể là sự ảnh hướng của cách tiếp cận của phương Tây đối với việc bảo tồn di sản, những nghiên cứu được trình bày trong cuốn sách này giúp hiểu hơn về giai đoạn mới và quan trọng về mặt lịch sử trong việc cấu trúc, định hình và thực hành bảo tồn di sản ở Trung Quốc. Sự “đổi chiều” trong cách mà di sản được hình dung và truyền bá và tiêu thụ mang đến những hàm ý quan trọng đối với sự thực hành quốc tế về việc bảo tồn di sản và quản lý trong những thập kỉ sắp tới (Winter 2014a). Khi khái niệm và sự thực hành của phương Tây về di sản đang bị chất vấn và xem xét bởi chính nó, việc xem xét cách thức mà sự ảnh hưởng quốc tế của khái niệm này đang bắt đầu tái tạo chính nó, thông qua việc truyền bá chúng đến những vùng không gian có sự khác biệt rất lớn về mặt địa lý, chính trị và văn hóa, là rất cần thiết. (Winter 2014b; Winter 2014c). Ở Trung Quốc và trên khắp thế giới, sự giao nhau về những vấn đề địa phương, quốc gia và quốc tế đã và đang đem lại sự tác động mới lên một phạm vi rộng lớn hơn cho các đối tượng tham gia vào việc xây dựng tính hiện đại/bản sắc thông quá trình di sản hóa (heritagization process) và cũng đưa ra những câu hỏi mới về ý nghĩa và sự thực hành của di sản trong bối cảnh toàn cầu.

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t04-1-dien-ngon-khong-chinh-thuc-ve-di-san-va-thuc-hanh-tai-trung-quoc/

Mặt Tối Của Trào Lưu Kiến Trúc Hiện Đại – Câu Chuyện Của Con Gái Một Kiến Trúc Sư Lớn Lên Ở Không Gian Kiến Trúc Nhà Kính (Phần 2)

04.11.2018

Tác giả: Baron Wormser

Tóm tắt:

Cuốn hồi ký sắp ra mắt của Elizabeth W. Garber – “Sự Sụp đổ”, kể về câu chuyện của chính cô gắn với lịch sử ngôi nhà kính được thiết kế bởi cha mình – Kiến trúc sư Woodie Garber. Cha cô được biết đến như là một Kiến trúc sư hiện đại cực đoan, thực nghiệm và sáng tạo nhất của Cincinnati. Cuốn hồi ký phơi bày những mặt tối của trào lưu kiến trúc hiện đại được đặt trong bối cảnh mối xung đột gay gắt giữa kiến trúc hiện đại và sự thay đổi triệt để, điên rồ của xã hội đầy biến động vào những năm 1960 ở Cincinnati. Dựa trên cuốn hồi ký này, tác giả Baron Wormser đã có cuộc trò chuyện với Gaber, qua đó chúng ta có thể thấy được sự khắc khe của trào lưu hiện đại và lý do tại sao bây giờ cô ấy không thể sống trong một ngôi nhà kính.

Ngôi nhà kính được thiết kế bởi KTS Woodie Garber – Nguồn: https://commonedge.org/

Mặt Tối Của Trào Lưu Kiến Trúc Hiện Đại – Câu Chuyện Của Con Gái Một Kiến Trúc Sư Lớn Lên Ở Không Gian Kiến Trúc Nhà Kính (Phần 1)

(Tiếp theo)

BW: Baron Wormser

EWG: Elizabeth W. Garber

BW: Lớn lên trong một căn nhà theo phong cách hiện đại có ý nghĩa như thế nào với bạn?

EWG: Ba thế hệ của gia đình tôi sống trong ngôi nhà theo phong cách Victoria. Tôi lớn lên ở đó và cảm thấy mình giống như cô gái trong một tiểu thuyết của Louisa May Alcott. Lúc tôi năm tuổi, gia đình tôi có đến nghỉ dưỡng tại một ngôi nhà hiện đại do cha tôi thiết kế cho người bạn của ông ở đảo Nantucket trong khoảng môt tuần. Đây cũng là trải nghiệm đầu tiên của tôi về việc sống trong một căn nhà hiện đại. Tôi cảm nhận được mặt trời, gió và ánh sáng tràn ngập ngôi nhà giống như ở ngoài biển. Ánh sáng ngập tràn không gian là những ký ức sống động nhất của tôi về thời thơ ấu. Tôi như là một người khác khi tôi ở đó. Tôi bị cuốn hút vào thiết kế của cha tôi và háo hức chờ đợi đến ngày chúng tôi sỡ hữu một căn nhà hiện đại và rời khỏi căn nhà cũ.

Vào giữa những năm 60, chúng tôi đã chuyển đến sống ở một căn nhà kính, cảm xúc của chúng tôi lúc đó rất phức tạp. Thoạt nhìn, căn nhà như một cái hộp được làm bằng các miếng gỗ dán thô ráp chưa hoàn thiện với các bức tường làm bằng kính và bị bao quanh bởi những đám ruộng lầy lội. Gia đình chúng tôi lúc đó như đang ở trong một công trình đang xây dựng và tất cả các thành viên đều phải dành mỗi cuối tuần để cùng nhau hoàn thiện căn nhà. Còn người cha thân yêu và tuyệt vời của chúng tôi hầu như không xuất hiện ở nhà và ông trở thành người đốc công để vận hành việc xây dựng. Nhưng lúc đó tôi chỉ 12 tuổi và các em trai thì mới 9 và 6 tuổi vì thế chúng tôi không thể hoàn thành những gì mà ông trông đợi. Điều này đã bắt đầu cho việc chúng tôi được giảng dạy thường xuyên. Có một điều thật lạ là chúng tôi chuyển đến không gian được thiết kế dành riêng cho mình nhưng lại không được có tiếng nói gì ở đó. Tôi phát ốm khi biết về bản vẽ, nhìn thấy hai cái giường đôi và những cái ghế trong phòng tôi đã được vẽ ra. Thậm chí tôi không được nói một lời nào về căn phòng của tôi.

Khi mà căn nhà được hoàn thiện, có đầy đủ nội thất hiện đại, nghệ thuật, điêu khắc, những chiếc đèn trên trần và dàn âm thanh lớn dùng cho máy chơi đĩa. Ngôi nhà như một kiệt tác, đẹp ngoạn mục và không có lời nào có thể diễn tả được. Chúng tôi chỉ là những đứa trẻ, chúng tôi chỉ muốn một ngôi nhà không có những cái cưa và mùn gỗ. Nhìn những gì có được, chúng tôi rất tự hào những điều đã làm. Chúng tôi đã có được tất cả những gì mình muốn. Nhưng nó lại quá to và quá sáng, không có cảm giác ấm cúng, không có sự riêng tư. Đôi khi tôi cảm thấy mọi thứ phơi bày ra giữa ban ngày và cảm thấy ngượng ngùng khi những bức tường kính dài trở thành những chiếc gương vào ban đêm. Chúng tôi như đang sống trong một bảo tàng với tất cả mọi thứ đều hiện đại.

Công trình của Garbers, một kiệt tác của gia đình

BW: Bạn thấy có điều gì đáng sợ trong phiên bản kiến trúc hiện đại của cha mình không?

EWG: Tôi cảm thấy như có một cái bóng trong cuộc đời của chúng tôi ở căn nhà kính đó, đại loại kiểu như chúng tôi bị mắc kẹt trong mặt tối của chiếc gương. Chúng tôi bị chi phối bởi nhiều luật lệ của kiến trúc hiện đại. Vì kiến trúc sư Corbusier nói không với ghế dài, rèm che, đèn để sàn nên chúng tôi không có quyền được thắc mắc tại sao. Chúng tôi không thể tìm thấy được một nơi nào trong căn nhà để có thể ngồi lại cùng với nhau. Chúng tôi ngồi tách biệt, cô lập trên những chiếc ghế Knolls và Eames dưới ánh đèn trần. Nếu trước kia chứng rối loạn lưỡng cực cha tôi bị kìm hãm trong ngôi nhà kiểu Victoria với nhiều hành lang, thì giờ đây nó đã có cơ hội bộc phát thông qua căn phòng sinh hoạt chung với bức tường kính khổng lồ. Mỗi khi cha tôi bật đèn sáng hơn, mở nhạc to hơn, ông dường như muốn nhấn mạnh việc được sống một cuộc sống hiện đại như mơ của chính mình. Trong khi cuộc sống của chúng tôi thì bị phơi bày một cách quá lộ liễu và không có một ranh giới nào cả. Nó y hệt như một loại cocktail nguy hiểm. Cuộc sống của chúng tôi đã bị xáo trộn. .

BW: Bạn đã cảm thông với những gì cha bạn đã làm với tư cách một kiến trúc sư. Vậy bạn có nhìn nhận cha mình như một anh hùng khi ông công kích vào những kẻ thù của chủ nghĩa hiện đại hay là một điều gì khác?

EWG: Lúc nhỏ khi tôi dạo quanh những công trình của cha tôi, đặc biệt là thư viện công cộng Cincinnati, tôi đã rất kính sợ ông. Những công trình của ông nội tôi là một vài trong số những công trình ấn tượng nhất trong thành phố, bao gồm một trong những tòa tháp trên đường chân trời ở nơi đây, là tòa Central Trust Tower. Tôi cảm thấy các nhà kiến trúc sư như những người quan trọng nhất của thế giới. Tôi thông cảm với những cuộc chiến của cha tôi để ông có thể hoàn thành được những công trình của mình, điều mà chúng tôi vẫn thường được nghe nói trong các bữa ăn tối.

Trong quá trình tôi viết cuốn hồi ký của mình, một cố vấn đã rất ngạc nhiên khi biết tôi học về sử thi Hy Lạp thời đại học, “Bạn đã lớn lên trong một thế giới thần thoại, và cha bạn là một anh hùng của những huyền thoại vĩ đại”. Giống như Odysseus, cha tôi chỉ là một anh hùng rơm bị vây quanh bởi những khó khăn. Nhưng trong sử thi thì anh hùng cuối cùng cũng tìm được đường về nhà.  Thế nên dù cho giữa chúng tôi có xung đột thế nào đi chăng nữa thì tôi vẫn hy vọng ông có thể tìm thấy đường về nhà.

BW: Từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, có bao giờ bạn cảm thấy bị phân biệt đối xử theo kiểu trọng nam khinh nữ trong quan điểm về kiến trúc hiện đại của cha bạn không?

EWG:  Trong thập niên 50 và 60 việc phân biệt đối xử và trọng nam khinh nữ là chuyện bình thường. Ở văn phòng làm việc của cha tôi, tất cả nhân viên đều là đàn ông và làm việc bên bàn vẽ, chỉ một người phụ nữ duy nhất chính là thư kí của ông. Khi tôi, với tư cách là người phụ nữ, nói rằng tôi muốn trở thành một kiến trúc sư, cha tôi đã bác bỏ ý kiến đó ngay lập tức. Ông cho rằng thế giới xây dựng là quá khắc nghiệt đối với phụ nữ và họ không thể cạnh tranh trong công việc với nam giới, và họ cũng không coi trọng một người phụ nữ làm công việc này. Cha tôi tham gia vào một câu lạc bộ văn học chỉ toàn nam giới và họ thậm chí còn không cho phép phụ nữ phục vụ bữa ăn cho họ.  Cha tôi còn tuyên bố rằng nếu tôi muốn tốt nghiệp cao đẳng, tôi nên theo học trường đào tạo thư ký. Và tôi đã rất tức giận. Tôi sẽ không trở thành một thư ký.

Nhưng có hai người phụ nữ là trường hợp ngoại lệ trong mối quan hệ công việc của cha tôi. Như Alice Friedman chỉ ra trong Phụ nữ và Tạo dựng ngôi nhà hiện đại, nhiều ngôi nhà hiện đại ra đời vì sự hợp tác ngoại lệ giữa những khách hàng nữ và kiến trúc sư. Có một khách hàng mà cha tôi đã quen biết từ khi họ còn là sinh viên đại học tại Cornell, người mà ông thừa nhận có thể là một kiến trúc sư, nhưng sau này đã trở thành một nghệ sĩ và nhà thiết kế thảm. Cô ấy muốn một ngôi nhà không có góc vuông và có những yêu cầu rất cụ thể về cách trang trí ngôi nhà của cô ấy. Cha tôi thừa nhận sự hợp tác của họ.

Người dịch: Tuyen Vo

Nguồn tham khảo:

Link báo: https://commonedge.org/an-architects-daughter-explores-modernisms-shadow/

Sắp đặt không gian Nhà ở mùa dịch Covid-19

Featured

Theo Bộ Y tế, đến hiện tại Việt Nam có 44 ca dương tính với Covid-19, 268 trường hợp nghi nhiễm (là những người có dấu hiệu ho, sốt, trở về từ vùng dịch) và 28.979 trường hợp phải cách ly, giám sát y tế. Số lượng người nhiễm tăng theo cấp số nhân dù chính phủ ở các quốc gia thời điểm hiện tại đã gia tăng cách ly, bảo vệ sức khỏe người dân và đảm bảo các phương án phòng chống.

Không có sự bảo vệ an toàn nào bằng một ý thức cao và sự bình tĩnh phòng bệnh trong lúc này. Mỗi cá nhân cần tránh việc đi ra ngoài nếu không cần thiết, tụ tập nơi đông người và cần đầu tư không gian sống đúng nghĩa, đảm bảo an toàn mà còn đem lại những luồng sinh khí tươi mới cho thành viên trong gia đình trong những ngày này.

Hình ảnh: Nguồn Pinterest

1. THƯỜNG XUYÊN SẮP XẾP, DỌN DẸP NHÀ CỬA
Việc sắp xếp gọn gàng và dọn dẹp thường xuyên sẽ mang lại sự thoáng đãng và sạch sẽ cho không gian sống của bạn. Có thể sử dụng xà phòng thông thường là đủ dùng, chỉ khi nào trong nhà có người bệnh, hoặc gần khu vực có người nhiễm virus corona mới cần sử dụng các dung dịch tẩy rửa đặc biệt như Javel hay Cloramin B. Đặc biệt lưu ý, phải vệ sinh tay nắm cửa, vì đó là nơi rất nhiều người tiếp xúc thường xuyên.

2. MỞ CỬA SỔ & SỬ DỤNG LƯỚI CHỐNG CÔN TRÙNG
Việc khai thác tối đa các nguồn năng lượng tự nhiên nhằm hạn chế tạo môi trường ẩm thấp dễ sinh sôi virus là điều quan trọng, nhưng chủ nhà nên kết hợp thêm hệ thống lưới chống côn trùng để đảm bảo an toàn tốt hơn. Mở cửa sổ và sử dụng lưới chống côn trùng là giải pháp thông minh, vừa đảm bảo nguồn nắng gió tự nhiên thông thoáng căn phòng, mà không bị làm phiền bởi các vị khách “không mời mà tới”

3. PHÂN CHIA CÁC KHÔNG GIAN RÕ RÀNG
Hãy phân chia không gian dành cho vật dụng sử dụng bên ngoài và vật dụng sử dụng trong nhà thành hai khu riêng biệt, có thể sử dụng vách ngăn, hộp chứa đựng…Hạn chế việc tiếp xúc giữa các vật phẩm này tạo điều kiện lây nhiễm qua lại.

4. TINH DẦU KHÁNG KHUẨN
Dùng tinh dầu xông có thể làm không khí trong lành và dễ chịu hơn khá nhiều. Đặc biệt là tinh dầu tràm giúp kháng khuẩn cao, tăng sức đề kháng cho thành viên gia đình.

5. MÁY LỌC KHÔNG KHÍ
Máy lọc không khí sử dụng công nghệ cao hoạt động dựa trên nguyên tắc phát ra các ion mang điện tích, tác động vào cấu trúc protein của vi khuẩn, vi rút làm phá vỡ và ngăn chặn sự sinh sôi của chúng. Nhờ đó có thể thanh lọc không khí khử các mùi ẩm mốc, độc hại gây dị ứng và có hại cho sức khỏe. Một số máy lọc không khí trên thị trường có khả năng tạo ẩm tự động bằng cách tạo ra hơi nước thông qua bộ lọc ẩm và bay hơi tự nhiên ra ngoài không khí, giúp việc duy trì độ ẩm trong phòng luôn ở mức tối ưu.

Mùa dịch quan trọng nhất chính là tinh thần cảnh giác, không chủ quan với dịch bệnh.

Bảo vệ sức khỏe cho bản thân chính là bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng.

Tổng hợp: An Nguyen (Splace)

Hình thái của Cảm xúc – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)


NHỮNG CẢM XÚC NGUYÊN SƠ CỦA KIẾN TRÚC

Tôi vẫn luôn cho rằng kiến trúc không thể chỉ là một trò chơi đơn thuần về hình khối. Quan điểm này không xuất phát từ những sự thật hiển nhiên rằng kiến trúc thường bị ràng buộc với mục đích thực tiễn của nó và rất nhiều những điều kiện bên ngoài. Thế nhưng nếu một công trình không thể đáp ứng được những điều kiện cơ bản về hiện tượng học để cấu thành nên nó như  một biểu tượng về sự tồn tại của loài người, công trình đó sẽ không thể tác động đến những xúc cảm liên kết với tâm hồn của chúng ta thông qua những hình ảnh mà nó tạo ra. Hiệu ứng kiến trúc được dựa trên những thứ mà chúng ta gọi là cảm xúc nguyên sơ. Những cảm xúc này tạo nên những ngôn ngữ cơ bản của kiến trúc theo một cách chân thật nhất và bằng cách sử dụng những ngôn ngữ này, một sản phẩm có thể trở thành kiến trúc và không chỉ là một khối điêu khắc cỡ lớn hoặc một hình vẽ phối cảnh.

Kiến trúc chính là sự biểu hiện trực tiếp của khái niệm tồn tại, của sự hiện diện của loài người trên thế giới này. Nó là sự biểu hiện trực diện bởi vì kiến trúc phần lớn dựa trên ngôn ngữ của cơ thể- điều mà ngay cả tác giả và người sử dụng cũng không ý thức được.

Những hình thức  trải nghiệm sau có thể là một trong những cảm xúc nguyên sơ đến từ kiến trúc:

– ngôi nhà như một biểu tượng của văn hóa trên một vùng đất, ngôi nhà như một sự phóng chiếu của con người và một điểm quy chiếu đến vùng đất đó;

– tiếp cận một công trình, nhận ra sự cư ngụ của con người hoặc một hình thức có sẵn dưới hình dạng của một ngôi nhà;

– đi vào một vùng ảnh hưởng của một công trình, bước vào lãnh địa của nó, thường là gần công trình

– có một mái nhà trên đầu, được cư ngụ và che chắn

– bước vào một ngôi nhà, bước qua cánh cửa, bước qua lằn ranh giữa nội thất và ngoại thất

– về nhà hoặc bước vào nhà vì một mục đích cụ thể, một kì vọng hoặc một sự thỏa mãn, cảm giác xa lạ và thân thiết.

– ở trong một căn phòng, cảm giác an toàn, cảm giác cùng nhau hoặc sự cô lập

– nằm trong vùng ảnh hưởng của điểm trung tâm nơi liên kết toàn bộ công trình, ví dụ như bàn, giường ngủ hoặc lò sưởi

– đối diện với ánh sáng hoặc bóng tối đang bao trùm không gian, không gian của ánh sáng

– nhìn ra ngoài cửa sổ, cửa sổ như sự liên kết với cảnh quan/ vùng đất

Tôi cho rằng trải nghiệm sự cô đơn chính là một trong những cảm xúc cơ bản mà kiến trúc mang lại, cũng như những trải nghiệm về sự tĩnh lặng và ánh sáng thường được tìm thất trong những trang viết của ( Louis) Kahn. Một trải nghiệm kiến trúc mạnh mẽ luôn đem đến cảm giác cô đơn và tĩnh lặng bất kể có bao nhiêu người hoặc tiếng ồn xung quanh. Trải nghiệm nghệ thuật là cuộc đối thoại riêng tư giữa tác phẩm và người sử dụng và loại bỏ tất cả những tương tác khác- Experiencing art is a private dialogue between the work and the person experiencing it which excludes all other interaction.

Những cảnh quan tự nhiên không bao giờ có thể biểu hiện sự cô đơn theo cùng một cách mà các công trình (nhân tạo) đem đến. Thiên nhiên không cần đến con người để biểu hiện bản thân nó, nhưng một công trình chính là đại diện cho người xây dựng nên nó và cũng đồng thời tiết lộ sự vắng mặt của họ. Cảm giác đau đớn khi bị bỏ lại một mình thông qua phương pháp biểu hiện ẩn dụ được dựa trên phần lớn những dấu hiện liên quan đến con người, những dấu hiệu đó như một sự gợi nhớ về cảm giác cô đơn đối với người thưởng thức.

Trải nghiệm kiến trúc rõ ràng và có lẽ là quan trọng nhất là cảm giác được ở một nơi độc nhất (unique place). Một phần của trải nghiệm mạnh mẽ này thông thường chính là  ấn tượng về một điều gì đó thiêng liêng: đây là nơi dành cho những điều thiêng liêng (higher beings). Một ngôi nhà có thể trông như được xây dựng cho một muc đích thực tế, nhưng sự thật là nó là một phương tiện siêu hình học, một công cụ thần bí mà chúng ta dùng để tạo ra sự phản chiếu về cái vô hạn lên sự tồn tại hữu hạn của loài người.

Kiến trúc vẫn luôn được cư ngụ bởi những linh hồn. Những người mà chúng ta biết có thể đang sống tốt trong những tòa nhà, nhưng họ chỉ diễn viên đóng thế trong một waking dream (một trải nghiệm có được khi con người đang trong trạng thái tỉnh nhưng lại cảm giác như đang trong một giấc mơ). Trong thực tế, kiến trúc luôn là nhà của những linh hồn, là nơi cư ngụ của những thực thể siêu hình (metaphysical beings).

Những người bảo vệ cho tính con người của kiến trúc ngày nay đang hoàn toàn nhầm lẫn khi họ cho rằng những công trình kiến trúc nên được thiết kế cho nhu cầu của những con người thực. Tôi muốn họ kể tên một công trình vĩ đại bất kỳ trong lịch sử kiến trúc mà không được xây dựng cho những con người lí tưởng. Điều kiện tiên quyết cho việc tạo ra một kiến trúc tốt là tạo ra một chủ đầu tư lý tưởng cho một dự án sắp tới.

TRẢI NGHIỆM ĐA GIÁC QUAN

Một trải nghiệm kiến trúc đầy ấn tượng sẽ lay động toàn bộ khả năng cảm thụ vật chất và tinh thần. Không dễ dàng để nắm bắt cấu trúc của cảm xúc bởi vì sự vô chừng và đa dạng của chúng. Trong những trải nghiệm này, chúng ta tìm thấy một sự kết hợp của sinh học và văn hóa, của tập thể và cá nhân, của nhận thức và vô thức, của lí tính và cảm tính, của tinh thần và thể xác.

Những biểu tượng và sự kết hợp trong ngôn ngữ của nghệ thuật có thể được diễn đạt theo nhiều cách và khiến nhận thức của con người chuyển hướng từ một sự diễn đạt này theo một sự diễn đạt khác. Adrian Stokers liên hệ tới sự liên kết gần gũi giữa trải nghiệm về đá marble, điêu khắc nổi (low relief) và sự tưởng tượng về nước (water fantasy)

Vậy thì như thế nào về những không gian được tạo ra bởi những giọt nước rơi thi thoảng trong một hầm tối ẩm thấp, những không gian đô thị được tạo ra từ âm thanh của những tiếng chuông nhà thờ, ý nghĩa về khoảng cách mà chúng ta cảm thấy khi âm thanh của một chuyến tàu đêm xuyên qua giấc mơ của chúng ta hay mùi không gian của một tiệm bánh hoặc một cửa hàng bánh ngọt? Tại sao những ngôi nhà bỏ hoang, lạnh lẽo ở khắp mọi nơi đều cùng có mùi của sự chết chóc? Đó có phải là vì mùi mà chúng ta ngửi được thực tế chính là thứ được tạo ra thông qua đôi mắt?

SỰ KHỞI ĐẦU

Tôi đã từng nói chuyện với một tu sĩ nhà thờ về việc thiết kế nhà thờ. Ông ấy đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu biết những nghi thức lễ tế, tính biểu tượng và những quy định bên trong của nhà thờ. Ông trông có vẻ phật ý khi tôi nói rằng chỉ có một người ngoại đạo mới có thể thiết kế một nhà thờ mang đầy tính biểu cảm. Theo quan điểm của tôi, biểu tượng của lòng tin chỉ có thể được biểu đạt một cách mạnh mẽ nhất bởi một người mới với thế giới của niềm tin. Một người mà nếu thiết kế nhà thờ của họ chỉ đơn giản là sự tổ chức của những hình khối được chỉ định thì chỉ có thể tạo ra một sự trống rỗng về mặt cảm xúc.

(Hết)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)

Hình thái của Cảm xúc – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)


Ý NIỆM/ BẢN THỂ (EIDOS) CỦA KIẾN TRÚC

Với tư cách là những kiến trúc sư, chúng ta ko đơn thuần thiết kế những công trình như những vật thể vật lý mà như những hình ảnh và cảm xúc của những con người đang sống trong đó. Do đó, hiệu quả của kiến trúc xuất phát ít hay nhiều từ những hình ảnh chung (common images) và những cảm xúc cơ bản liên kết với công trình.

Hiện tượng học phân tích những cảm xúc cơ bản đó và nó cũng đang dần trở thành một công cụ phổ biến để đánh giá kiến trúc trong những năm gần đây. Một cách tiếp cận mang tính triết học gắn liền nhiều nhất với những cái tên như Edmund Husserl và Martin Heidegger. Cách tiếp cận này mang tính tự sự/ nội quan về bản chất, tương phản với mong muốn về sự khách quan của quan điểm thực chứng. Hiện tượng học cố gắng phác họa những hiện tượng liên quan trực tiếp đến sự nhận thức mà ko có bất kì lí luận nào có nguồn gốc từ các môn khoa học tự nhiên hay tâm lí học. Do đó, hiện tượng học nghĩa là kiểm chứng một hiện tượng của nhận thức dựa trên chính chiều kích của chính sự nhận thức đó (Phenomenology thus means examining a phenomenon of the consciousness in its own dimension of consciousness) Điều đó, hay như ý tưởng của Husserl là “”một cái nhìn thuần khiết (pure looking) vào hiện tượng” hay “nhìn vào bản chất vấn đề”. Hiện tượng học là một cách tiếp cận lý thuyết thuần túy trong nghiên cứu theo đúng ý nghĩa nguyên bản của từ Hy Lạp- theoria, nghĩa là “sự nhìn vào” (a looking at).

Hiện tượng học trong kiến trúc do đó chính là việc nhìn vào kiến trúc từ bên trong cái nhận thức đang trải nghiệm nó (kiến trúc), thông qua những cảm xúc về kiến trúc. Điều này tương phản với việc phân tích những tỉ lệ và tính chất vật lý của một công trình hoặc một khuôn mẫu phong cách được sử dụng. Hiện tượng học trong kiến trúc tìm kiếm ngôn ngữ nội tại của một công trình.

Có một sự hoài nghi to lớn về cách tiếp cận nội tại với nghệ thuật bởi vì sự thiếu khách quan của nó. Nhưng dường như con người không có vẻ muốn đòi hỏi cùng một sự khách quan đó từ các tác phẩm sáng tạo của nghệ sĩ. Một tác phẩm nghệ thuật là một thực tại chỉ khi nó được trải nghiệm và việc trải nghiệm của tác phẩm cũng chính là việc tái tạo lại những chiều kích cảm xúc của nó.

Một trong những vật liệu thô sơ (raw material) quan trọng nhất cho những phân tích hiện tượng của kiến trúc chính là kí ức đầu về tuổi thơ (early childhood memory). Chúng ta thường cho rằng kí ức tuổi thơ là sản phẩm của sự nhận thức non nớt ngây ngô. Đồng thời, dù có một sự hấp dẫn to lớn nhưng khả năng ghi nhớ kí ức của trẻ em thường bị coi thường vì thiếu giá trị thực tiễn, như chính những giấc mơ của chúng ta. Nhưng cả hai ngộ nhận này đều sai lầm. Chắc chắn rằng vẫn có một số kí ức ban đầu nhất định sẽ còn lưu giữ những nhận diện cá nhân (personal identifiability) và sức mạnh cảm xúc thông qua cuộc sống của chúng ta. Chính những kí ức này có thể cung cấp những bằng chứng thuyết phục về sự quan trọng và sự nguyên bản của những trải nghiệm này, cũng như những giấc mơ và sự mơ mộng có thể tiết lộ một phần chân thật và ngẫu nhiên nhất về những gì trong đầu chúng ta.

KIẾN TRÚC KHÔNG CẦN KIẾN TRÚC SƯ

Những nguyên liệu có lợi cho việc phân tích hiện tượng học của những trải nghiệm kiến trúc cũng có thể được tìm thấy ở những lĩnh vực nghệ thuật khác, nơi mà kiến trúc được trình bày và phác họa theo những cách khác nhau. Trong thơ ca, hình ảnh được liên kết với những công trình là rất phổ biến và chúng cũng là những nguyên liệu thực cho tác phẩm của Gaston Bachelard “Những vần thơ của không gian” (La Poétique de l’Espace). Bachelard cũng đã từng viết một tác phẩm về hiện tượng học trong những bài thơ về sự mơ mộng (Những bài thơ của sự mộng tưởng- La Poétique de la Rêverie”). Những tác phẩm đó, có rất nhiều điểm liên kết với nghệ thuật của những công trình bất kể chủ đề phi kiến trúc của chúng. Trong văn học, nhiếp ảnh, điện ảnh và hội họa, ngôn ngữ bí mật nơi mà những vùng đất, những công trình xây dựng hoặc những đối tượng ảnh hưởng đến con người thường đóng vai trò quan trọng. Có một vài ví dụ trong văn học cổ điển của Nga, những bộ phim của Alfred Hitchcock và Andre Tarkovski, những bức ảnh của Walker Evan hoặc phần kiến trúc được thể hiện trong tranh vẽ, từ những hình ảnh thời Phục Hưng cho đến những phong cảnh về sự cô đơn siêu hình của Edward Hopper và những căn phòng đầy chứa đầy sự băn khoăn đầy tính dục. Khi một nhà văn, một đạo diễn phim, hay một họa sĩ phải truyền đạt đến mọi người một sự kiện, họ thường sử dụng một bối cảnh hoặc một nơi chốn như một phương tiện để thực hiện sự truyền đạt đó. Nói cách khác, những nghệ sĩ này đang thực hiện công việc thiết kế kiến trúc mà không cần khách hàng, không có sự tính toán kết cấu hoặc giấy phép xây dựng. Sự biểu hiện của kiến trúc trong các môn nghệ thuật khác chính là một cái nhìn thuần khiết (pure looking) theo cái cách mà một đứa trẻ cảm nhận về sự việc, đối với luật lệ trong những nguyên tắc kiến trúc mà không quy định những trải nghiệm hay cách thức mà nó được biểu hiện.

KIẾN TRÚC CỦA KÍ ỨC

Phần kiến trúc bên trong của tâm trí xuất phát từ cảm xúc và những hình ảnh kí ức được xây dựng dựa trên những nguyên tắc của kiến trúc được phát triển bởi những phương thức tiếp cận chuyên nghiệp. Cá nhân tôi cho rằng bản thân tôi không thể nhớ về một khung cửa sổ hay một cánh cửa cụ thể từ trong kí ức tuổi thơ của mình nhưng tôi vẫn có thể ngồi bên cạnh những ô cửa sổ của những kí ức mà nhìn ra một khu vườn đã biến mất từ rất lâu hoặc một khu đất vốn bị bỏ hoang giờ đây được che phủ với những tán cây. Tôi cũng có thể bước qua vô số những cách cửa của kí ức và nhận ra một sự ấm áp trong bóng tối với một thứ mùi của những căn phòng ở phía bên kia cánh cửa.

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)

Hình thái của Cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

Featured

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.


Lời người dịch

Không gian ý niệm”- Lần đầu tiên tôi được nghe đến khái niệm này là khi đang học năm thứ 3 ngành Thiết kế nội thất (sau này khoa đã được đổi tên thành Kiến trúc nội thất), đại học Kiến trúc TP.HCM. Thầy tôi khi ấy đã nói rằng không gian ý niệm chính là đỉnh cao trong thiết kế không gian, thiết kế dựa trên những thứ vô hình (cảm xúc) và truyền đạt nó thông qua những thứ hữu hình (ngôn ngữ thiết kế), như một dạng cầu nối trực tiếp nhất giữa thế giới vật chất hữu hình (không gian vật lý, kiến trúc, nội thất) với thế giới nội tâm vô hình nhưng sâu thẳm bên trong mỗi con người. Khái niệm này đã ám ảnh tôi suốt một thời gian dài và cho đến tận bây giờ. Để theo đuổi giới hạn này, chúng ta trước hết phải có đủ can đảm và liều lĩnh đặt chân vào nơi sâu thẳm nhất trên thế giới- nội tâm con người, nơi mà theo nhà tâm lý học phân tích nổi tiếng người Thụy Sĩ, Carl Jung, chính là:

a vast territory… it was a mystery that challenge the adventuresome with the prospect of rich discovery and frightened the timid with the threat of insanity… the whole world hangs on a thread and that thread is the human psyche.” (Murray, 1998).

một địa hạt mênh mông rộng lớn… nó (tâm lý con người) là một bí ẩn đầy thách thức với những kẻ ưa mạo hiểm cùng với phần thưởng là một sự khám phá to lớn nhưng cũng đồng thời làm những người rụt rè e sợ bởi nguy cơ bị mất trí… cả thế giới được treo trên một sợi chỉ và sợi chỉ đó chính là nội tâm con người

Thế nhưng sau đó, bằng cách nào để có thể tạo ra sự kết nối giữa thế giới vô hình tưởng chừng như xa xăm đó với một không gian xây dựng vật lý khi ngày nay, phần lớn những thử nghiệm trong thiết kế nội thất đều xoay quanh xu hướng và phong cách- những yếu tố bên ngoài, hữu hình và tồn tại ngắn hạn?

6 năm sau, vào năm 2018, khi đang tiến hành nghiên cứu cho luận án Thạc sĩ của tôi tại Anh, câu hỏi này đã bắt đầu được giải đáp nhờ vào bài tiểu luận Hình thái của cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện tượng học trong kiến trúc của Juhani Pallasmaa. Đây là một chương trong cuốn sách Lý luận cho một kỉ nguyên mới trong kiến trúc- Tuyển tập các bài lý luận kiến trúc (Theorizing a New Agenda for Architecture- an Anthology of Architectural Theory) được xuất bản vào năm 1996.

Vậy hiện tượng học (phenomenology) là gì? Hiện tượng học hay triết học hiện tượng là một trong những khám phá mang tính đột phá của triết học phương Tây ở thế kỉ 20. Ở đây, “hiện tượng” (phenomenon) được hiểu là tất cả các hiện tượng của ý thức theo một nghĩa phổ quát.

Thông thường ý thức hướng ra thế giới bên ngoài. Trong đời sống và trong hoạt động khoa học chúng ta xuất phát từ một lòng tin thâm căn cố đế vào sự tồn tại khách quan, không lệ thuộc và ý thức của thế giới xung quanh. Đã đến lúc cần từ bỏ cách đặt vấn đề “có tính chất tự nhiên” này, quay sự chú ý của chúng ta vào thế giới bên trong, vào chính ý thức. Thế giới bên ngoài, thế giới được xem như đối tượng không phải là mối quan tâm cơ bản. Đối tượng của triết học là ý thức – một “siêu việt tính lý tưởng”. Chỉ trong môi trường của tồn tại lý tưởng ấy chân lý mới phát lộ ra cho ta bằng con đường trực giác bản chất. Nội dung của ý thức “thuần túy” cũng là đối tượng của sự nghiên cứu hiện tượng học.” (Triethoc.edu.vn, 2014)

Bài tiểu luận nàyđã gợi mở cho tôi rất nhiều về sự kết nối ý thức giữa con người với không gian sử dụng. Nhìn lại lịch sử phát triển bắt đầu từ thế kỉ 20, ta có thể nhận thấy rằng sự chú ý của phần lớn các ngành, lĩnh vực nghiên cứu đều đổ dồn vào một loạt những thành tựu vĩ đại về khoa học kĩ thuật, công nghệ mà dừơng như bỏ quên đằng sau một vùng đất bí ẩn và nhưng cũng đầy hứa hẹn khác nằm trong chính tâm trí mỗi con người chúng ta. Sự ra đời của triết học, phương pháp luận Hiện tượng học và ứng dụng của nó trong kiến trúc nói riêng và thiết kế không gian nói chung đã giúp đánh thức sự tập trung của người thiết kế vào việc tìm hiểu, nghiên cứu và thiết lập một mối liên hệ sâu sắc từ trong ra ngoài (inside out) giữa con người và không gian sử dụng, không ngừng thúc đẩy giới hạn của thiết kế đến một mức độ sâu sắc và tinh tế hơn rất nhiều.

Để tìm hiểu kĩ hơn về sự hình thành và quá trình phát triển của triết học hiện tượng và hiện tượng học trong kiến trúc, bạn có thể vào đây:

https://kienviet.net/2013/12/11/hien-tuong-hoc-kien-truc/

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

Không gian trải nghiệm Khoảng trống kí ức (Memory void) tại Bảo tàng Do thái, Berlin, Đức

Nội dung bài tiểu luận Hình thái của cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện tượng học trong kiến trúc của Juhani Pallasmaa

Vì sao có rất ít những công trình hiện đại có thể khơi gợi cảm xúc của chúng ta, trong khi gần như bất kì một ngôi nhà vô danh nào ở một thị trấn cũ hay một nông trại khiêm tốn ngoài trời đều có thể đem đến cho con người một cảm giác thân thuộc và thoải mái? Tại sao những nền đá mà chúng ta tìm thấy ở những đồng cỏ um tùm, một kho thóc đổ nát hay một ngôi nhà nổi bỏ hoang đều có thể kích thích trí tưởng tượng của con người trong khi chính những ngôi nhà mà ta ở lại đang bóp chết những sự mơ mộng đó? Những công trình xây dựng trong thời đại ngày nay có thể khơi dậy sự tò mò ở con người nhờ vào khả năng sáng tạo đầy táo bạo nhưng chúng lại khó lòng đem đến cho chúng ta bất kì ý nghĩa nào về thế giới này cũng như sự tồn tại của chính mình.

Ngày nay, có nhiều nỗ lực đang được thực hiện để làm hồi sinh thứ ngôn ngữ kiến trúc đã bị suy yếu thông qua một cách diễn đạt phong phú hơn và làm sống lại những chủ đề lịch sử. Tuy nhiên, dù có một sự đa dạng mạnh mẽ trong cách tiếp cận, nhưng với một cách thể hiện khô cứng mang đậm tính kĩ thuật như trong lĩnh vực xây dựng, thứ mà họ đang cố chống lại, những tác phẩm tiên phong này dường như chỉ đem lại một cảm giác mất mát to lớn về ý nghĩa

Sự kiệt quệ về ý nghĩa nội tại của kiến trúc đã được phân tích kỹ trong rất nhiều bài viết về lí luận kiến trúc gần đây. Một vài tác giả cho rằng kiến trúc của chúng ta quá nghèo nàn về hình thức, một số khác lại cho rằng hình thức của chúng (kiến trúc) thì lại quá trừu tượng hoặc hàn lâm. Từ trên quan điểm của triết học văn hóa, toàn bộ hệ thống chủ nghĩa duy vật khoái lạc (hedonistic materialism) của chúng ta dường như đang đánh mất đi khía cạnh tinh thần, điều mà nhìn chung có thể xứng đáng được duy trì lâu dài.


KIẾN TRÚC NHƯ MỘT TRÒ CHƠI VỚI HÌNH KHỐI

Trong quá trình chuyển đổi thành một chuyên ngành đặc thù, kiến trúc đã dần dần tự tách rời bản thân khỏi nền tảng dự tính ban đầu, trở thành một chuyên ngành ngày càng bị chi phối toàn diện bởi một hệ thống giá trị và luật lệ riêng biệt. Kiến trúc đang dần trở thành một lĩnh vực của công nghệ, nhưng vẫn mạo hiểm tự nhận bản thân là một hình thức biểu đạt tự do của tính nghệ sĩ.

Ngoài ra vẫn có những một bằng chứng bổ sung khác có thể chứng minh rằng kiến trúc đang tự tách rời khỏi nền tảng và mục đích đúng đắn của mình. Ở đây, tôi muốn đề cập đến một góc nhìn về mối quan hệ giữa hình thức kiến trúc và phương thức trải nghiệm kiến trúc. Lập luận của tôi cho rằng quy hoạch, bố trí đang bị biến thành một dạng trò chơi về hình khối theo một cách cực đoan và giá trị thật sự của việc trải nghiệm một công trình đang bị xem nhẹ. Chúng ta đang phạm sai lầm trong suy nghĩ và đánh giá một công trình như một sự tổng hợp cứng nhắc của hình khối, mà không hiểu rằng chúng chính là biểu tượng hoặc sự trải nghiệm của một thực tế khác, một thực tế nằm sau những biểu tượng.

Đã đến lúc chúng ta cần xem xét liệu rằng hình thức hay hình khối về tổng thể liệu có thể khơi dậy những cảm xúc kiến trúc (architectural feeling) hay không. Hình thức có phải là những yếu tố cơ bản duy nhất của toàn bộ kiến trúc không? Và liệu những yếu tố khác của công trình như tường, cửa sổ hay cửa đi có phải là những đơn vị thật sự của cảm xúc kiến trúc không?

NHẦM TƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA ELEMENTARISM (CHỦ NGHĨA SƠ BỘ)

Những tiến bộ của khoa học hiện đại đã bị kiểm soát bởi nguyên tắc của chủ nghĩa sơ bộ (elementarism) và chủ nghĩa cắt giảm (reductionism). Khi xem xet một hiện tượng, người ta thường chia nhỏ nó ra thành những yếu tố cơ bản và các mối liên hệ cơ bản, sau đó đánh giá hiện tượng đó như một sự tổng hợp của các yếu tố này.

Quan điểm của chủ nghĩa sơ bộ cũng chi phối lý luận, giảng dạy và thực hành trong nghệ thuật và kiến trúc. Điều này cũng đồng thời bị giới hạn chỉ cho nghệ thuật của thị giác. Trên nền tảng của hệ tư tưởng được truyền đạt bởi trường Bauhaus, kiến trúc được giảng dạy và phân tích như một trò chơi với hình khối và không gian. Người ta cho rằng đây cách để đạt được một sự kích thích thị giác dựa trên chức năng của nhận thức thị giác được nghiên cứu bởi tâm lý học nhận thức. Một công trình được nhìn nhận như một tổ hợp chắc chắn được xây dựng dựa trên sự lựa chọn của các yếu tố có sẵn mà mất đi sự liên hệ với thực tế về trải nghiệm bên ngoài của chính bản thân công trình, đó là chưa kể đến sự nỗ lực một cách tỉnh táo để phác họa và biểu hiện rõ ràng lĩnh vực của nhận thức của chúng ta.

Thế nhưng chẳng phải một tác phẩm nghệ thuật thật ra chính là sự đối nghịch với toàn bộ ý tưởng về chủ nghĩa sơ bộ sao? Chắc chắn rằng ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật được khai sinh từ tổng thể, từ một ý tưởng kết nối các bộ phận chứ không hề là sự tổng hợp của các yếu tố.

Việc phân tích cấu trúc cứng nhắc của một công trình kiến trúc không phải lúc nào cũng có thể giúp biểu đạt chất nghệ sĩ của một toàn nhà hay việc chúng tạo ra những hiệu ứng này như thế nào.

KIẾN TRÚC CỦA HÌNH TƯỢNG

Tính nghệ sĩ của một tác phẩm nghệ thuật không nằm ở những thứ hữu hình hiển nhiên mà chúng chỉ tồn tại trong nhận thức của người thưởng thức. Do đó, việc phân tích một tác phẩm nghệ thuật chính là nằm ở cái nội quan chân thật nhất thông qua nhận thức ấn định lên nó. Ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật không nằm ở hình dáng mà nằm ở cái hình ảnh được chuyển hóa thông qua các hình khối và những tác động về mặt cảm xúc mà chúng chứa đựng. Hình dáng chỉ tác động đến cảm xúc của chúng ta thông qua cái mà nó muốn biểu đạt.

Do đó, nếu việc giảng dạy và phê bình không cố gắng làm rõ những chiều không gian kiến trúc được truyền tải một cách có ý thức thì họ sẽ khó lòng đạt được bất kỳ thứ gì liên quan tới bản chất nghệ thuật của kiến trúc. Những nỗ lực ngày nay để khôi phục sự giàu có của tính biểu hiện kiến trúc thông qua sự đa dạng của hình dáng thì được dựa trên một sự kém hiểu biết về bản chất của nghệ thuật. Sự giàu có của một công trình nghệ thuật nằm ở sức sống của những hình ảnh mà nó khơi gợi nên. Tuy nhiên sự mâu thuẫn nằm ở chỗ những hình ảnh được sử dụng cho phần lớn các sự diễn dịch này thì lại được khơi gợi thông qua những hình khối đơn giản và nguyên bản nhất (the simplest, most archetypal forms). Sự quay lại của Chủ nghĩa Hậu hiện đại với những chù đề cổ xưa (ancient theme) thì không có đủ lực thúc đẩy bởi vì sự cắt ghép những mô tuýp kiến trúc này đã đánh mất đi sự liên kết tự nhiên chân thật về mặt cảm xúc với bản thân kiến trúc đó.

Ezra Pound đã từng nói rằng âm nhạc sẽ bị suy thoái nếu nó tách rời quá xa khỏi điệu nhảy và thơ ca sẽ héo mòn nếu nó bị tách rời khỏi âm nhạc và câu hát. Tương tự, kiến trúc cũng có nguồn cội riêng, và nếu nó bị tách rời quá xa khỏi nguồn cội đó, kiến trúc sẽ tự đánh mất tính hiệu quả của nó. Việc làm mới một môn nghệ thuật nghĩa là tìm lại phần bản chất sâu thẳm nhất của chính nóThe renewal of an art means rediscovering its deepest essence.

Ngôn ngữ của nghệ thuật là ngôn ngữ của những biểu tượng, thứ ngôn ngữ có thể được đồng nhất với sự tồn tại của chúng ta. Nếu nó thiếu đi sự liên kết với những kí ức về giác quan nằm ở tiềm thức và liên kết với hàng loạt những giác quan khác, thì nghệ thuật sẽ có thể bị hạn chế như một thứ trang trí vô hồn. Sự trải nghiệm của nghệ thuật chính là sự tương tác giữa kí ức được biểu hiện và thế giới của chúng ta. Theo một nghĩa chung thì tất cả mọi hình thức nghệ thuật đều xuất phát từ chính cơ thể của con người. Một nhà viết tiểu luận về nghệ thuật nhận thức, Adrian Stokes, đã chỉ ra rằng:

 “…điều đó là cực kì quan trọng rằng để trải nghiệm ý nghĩa và bản chất của kiến trúc thì sự tác động đó phải được xây dựng dựa trên một sự tương đồng trong thế giới trải nghiệm của người sử dụng.”

(Còn tiếp)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)