Hình thái của Cảm xúc – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)


NHỮNG CẢM XÚC NGUYÊN SƠ CỦA KIẾN TRÚC

Tôi vẫn luôn cho rằng kiến trúc không thể chỉ là một trò chơi đơn thuần về hình khối. Quan điểm này không xuất phát từ những sự thật hiển nhiên rằng kiến trúc thường bị ràng buộc với mục đích thực tiễn của nó và rất nhiều những điều kiện bên ngoài. Thế nhưng nếu một công trình không thể đáp ứng được những điều kiện cơ bản về hiện tượng học để cấu thành nên nó như  một biểu tượng về sự tồn tại của loài người, công trình đó sẽ không thể tác động đến những xúc cảm liên kết với tâm hồn của chúng ta thông qua những hình ảnh mà nó tạo ra. Hiệu ứng kiến trúc được dựa trên những thứ mà chúng ta gọi là cảm xúc nguyên sơ. Những cảm xúc này tạo nên những ngôn ngữ cơ bản của kiến trúc theo một cách chân thật nhất và bằng cách sử dụng những ngôn ngữ này, một sản phẩm có thể trở thành kiến trúc và không chỉ là một khối điêu khắc cỡ lớn hoặc một hình vẽ phối cảnh.

Kiến trúc chính là sự biểu hiện trực tiếp của khái niệm tồn tại, của sự hiện diện của loài người trên thế giới này. Nó là sự biểu hiện trực diện bởi vì kiến trúc phần lớn dựa trên ngôn ngữ của cơ thể- điều mà ngay cả tác giả và người sử dụng cũng không ý thức được.

Những hình thức  trải nghiệm sau có thể là một trong những cảm xúc nguyên sơ đến từ kiến trúc:

– ngôi nhà như một biểu tượng của văn hóa trên một vùng đất, ngôi nhà như một sự phóng chiếu của con người và một điểm quy chiếu đến vùng đất đó;

– tiếp cận một công trình, nhận ra sự cư ngụ của con người hoặc một hình thức có sẵn dưới hình dạng của một ngôi nhà;

– đi vào một vùng ảnh hưởng của một công trình, bước vào lãnh địa của nó, thường là gần công trình

– có một mái nhà trên đầu, được cư ngụ và che chắn

– bước vào một ngôi nhà, bước qua cánh cửa, bước qua lằn ranh giữa nội thất và ngoại thất

– về nhà hoặc bước vào nhà vì một mục đích cụ thể, một kì vọng hoặc một sự thỏa mãn, cảm giác xa lạ và thân thiết.

– ở trong một căn phòng, cảm giác an toàn, cảm giác cùng nhau hoặc sự cô lập

– nằm trong vùng ảnh hưởng của điểm trung tâm nơi liên kết toàn bộ công trình, ví dụ như bàn, giường ngủ hoặc lò sưởi

– đối diện với ánh sáng hoặc bóng tối đang bao trùm không gian, không gian của ánh sáng

– nhìn ra ngoài cửa sổ, cửa sổ như sự liên kết với cảnh quan/ vùng đất

Tôi cho rằng trải nghiệm sự cô đơn chính là một trong những cảm xúc cơ bản mà kiến trúc mang lại, cũng như những trải nghiệm về sự tĩnh lặng và ánh sáng thường được tìm thất trong những trang viết của ( Louis) Kahn. Một trải nghiệm kiến trúc mạnh mẽ luôn đem đến cảm giác cô đơn và tĩnh lặng bất kể có bao nhiêu người hoặc tiếng ồn xung quanh. Trải nghiệm nghệ thuật là cuộc đối thoại riêng tư giữa tác phẩm và người sử dụng và loại bỏ tất cả những tương tác khác- Experiencing art is a private dialogue between the work and the person experiencing it which excludes all other interaction.

Những cảnh quan tự nhiên không bao giờ có thể biểu hiện sự cô đơn theo cùng một cách mà các công trình (nhân tạo) đem đến. Thiên nhiên không cần đến con người để biểu hiện bản thân nó, nhưng một công trình chính là đại diện cho người xây dựng nên nó và cũng đồng thời tiết lộ sự vắng mặt của họ. Cảm giác đau đớn khi bị bỏ lại một mình thông qua phương pháp biểu hiện ẩn dụ được dựa trên phần lớn những dấu hiện liên quan đến con người, những dấu hiệu đó như một sự gợi nhớ về cảm giác cô đơn đối với người thưởng thức.

Trải nghiệm kiến trúc rõ ràng và có lẽ là quan trọng nhất là cảm giác được ở một nơi độc nhất (unique place). Một phần của trải nghiệm mạnh mẽ này thông thường chính là  ấn tượng về một điều gì đó thiêng liêng: đây là nơi dành cho những điều thiêng liêng (higher beings). Một ngôi nhà có thể trông như được xây dựng cho một muc đích thực tế, nhưng sự thật là nó là một phương tiện siêu hình học, một công cụ thần bí mà chúng ta dùng để tạo ra sự phản chiếu về cái vô hạn lên sự tồn tại hữu hạn của loài người.

Kiến trúc vẫn luôn được cư ngụ bởi những linh hồn. Những người mà chúng ta biết có thể đang sống tốt trong những tòa nhà, nhưng họ chỉ diễn viên đóng thế trong một waking dream (một trải nghiệm có được khi con người đang trong trạng thái tỉnh nhưng lại cảm giác như đang trong một giấc mơ). Trong thực tế, kiến trúc luôn là nhà của những linh hồn, là nơi cư ngụ của những thực thể siêu hình (metaphysical beings).

Những người bảo vệ cho tính con người của kiến trúc ngày nay đang hoàn toàn nhầm lẫn khi họ cho rằng những công trình kiến trúc nên được thiết kế cho nhu cầu của những con người thực. Tôi muốn họ kể tên một công trình vĩ đại bất kỳ trong lịch sử kiến trúc mà không được xây dựng cho những con người lí tưởng. Điều kiện tiên quyết cho việc tạo ra một kiến trúc tốt là tạo ra một chủ đầu tư lý tưởng cho một dự án sắp tới.

TRẢI NGHIỆM ĐA GIÁC QUAN

Một trải nghiệm kiến trúc đầy ấn tượng sẽ lay động toàn bộ khả năng cảm thụ vật chất và tinh thần. Không dễ dàng để nắm bắt cấu trúc của cảm xúc bởi vì sự vô chừng và đa dạng của chúng. Trong những trải nghiệm này, chúng ta tìm thấy một sự kết hợp của sinh học và văn hóa, của tập thể và cá nhân, của nhận thức và vô thức, của lí tính và cảm tính, của tinh thần và thể xác.

Những biểu tượng và sự kết hợp trong ngôn ngữ của nghệ thuật có thể được diễn đạt theo nhiều cách và khiến nhận thức của con người chuyển hướng từ một sự diễn đạt này theo một sự diễn đạt khác. Adrian Stokers liên hệ tới sự liên kết gần gũi giữa trải nghiệm về đá marble, điêu khắc nổi (low relief) và sự tưởng tượng về nước (water fantasy)

Vậy thì như thế nào về những không gian được tạo ra bởi những giọt nước rơi thi thoảng trong một hầm tối ẩm thấp, những không gian đô thị được tạo ra từ âm thanh của những tiếng chuông nhà thờ, ý nghĩa về khoảng cách mà chúng ta cảm thấy khi âm thanh của một chuyến tàu đêm xuyên qua giấc mơ của chúng ta hay mùi không gian của một tiệm bánh hoặc một cửa hàng bánh ngọt? Tại sao những ngôi nhà bỏ hoang, lạnh lẽo ở khắp mọi nơi đều cùng có mùi của sự chết chóc? Đó có phải là vì mùi mà chúng ta ngửi được thực tế chính là thứ được tạo ra thông qua đôi mắt?

SỰ KHỞI ĐẦU

Tôi đã từng nói chuyện với một tu sĩ nhà thờ về việc thiết kế nhà thờ. Ông ấy đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu biết những nghi thức lễ tế, tính biểu tượng và những quy định bên trong của nhà thờ. Ông trông có vẻ phật ý khi tôi nói rằng chỉ có một người ngoại đạo mới có thể thiết kế một nhà thờ mang đầy tính biểu cảm. Theo quan điểm của tôi, biểu tượng của lòng tin chỉ có thể được biểu đạt một cách mạnh mẽ nhất bởi một người mới với thế giới của niềm tin. Một người mà nếu thiết kế nhà thờ của họ chỉ đơn giản là sự tổ chức của những hình khối được chỉ định thì chỉ có thể tạo ra một sự trống rỗng về mặt cảm xúc.

(Hết)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)

Hình thái của Cảm xúc – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)


Ý NIỆM/ BẢN THỂ (EIDOS) CỦA KIẾN TRÚC

Với tư cách là những kiến trúc sư, chúng ta ko đơn thuần thiết kế những công trình như những vật thể vật lý mà như những hình ảnh và cảm xúc của những con người đang sống trong đó. Do đó, hiệu quả của kiến trúc xuất phát ít hay nhiều từ những hình ảnh chung (common images) và những cảm xúc cơ bản liên kết với công trình.

Hiện tượng học phân tích những cảm xúc cơ bản đó và nó cũng đang dần trở thành một công cụ phổ biến để đánh giá kiến trúc trong những năm gần đây. Một cách tiếp cận mang tính triết học gắn liền nhiều nhất với những cái tên như Edmund Husserl và Martin Heidegger. Cách tiếp cận này mang tính tự sự/ nội quan về bản chất, tương phản với mong muốn về sự khách quan của quan điểm thực chứng. Hiện tượng học cố gắng phác họa những hiện tượng liên quan trực tiếp đến sự nhận thức mà ko có bất kì lí luận nào có nguồn gốc từ các môn khoa học tự nhiên hay tâm lí học. Do đó, hiện tượng học nghĩa là kiểm chứng một hiện tượng của nhận thức dựa trên chính chiều kích của chính sự nhận thức đó (Phenomenology thus means examining a phenomenon of the consciousness in its own dimension of consciousness) Điều đó, hay như ý tưởng của Husserl là “”một cái nhìn thuần khiết (pure looking) vào hiện tượng” hay “nhìn vào bản chất vấn đề”. Hiện tượng học là một cách tiếp cận lý thuyết thuần túy trong nghiên cứu theo đúng ý nghĩa nguyên bản của từ Hy Lạp- theoria, nghĩa là “sự nhìn vào” (a looking at).

Hiện tượng học trong kiến trúc do đó chính là việc nhìn vào kiến trúc từ bên trong cái nhận thức đang trải nghiệm nó (kiến trúc), thông qua những cảm xúc về kiến trúc. Điều này tương phản với việc phân tích những tỉ lệ và tính chất vật lý của một công trình hoặc một khuôn mẫu phong cách được sử dụng. Hiện tượng học trong kiến trúc tìm kiếm ngôn ngữ nội tại của một công trình.

Có một sự hoài nghi to lớn về cách tiếp cận nội tại với nghệ thuật bởi vì sự thiếu khách quan của nó. Nhưng dường như con người không có vẻ muốn đòi hỏi cùng một sự khách quan đó từ các tác phẩm sáng tạo của nghệ sĩ. Một tác phẩm nghệ thuật là một thực tại chỉ khi nó được trải nghiệm và việc trải nghiệm của tác phẩm cũng chính là việc tái tạo lại những chiều kích cảm xúc của nó.

Một trong những vật liệu thô sơ (raw material) quan trọng nhất cho những phân tích hiện tượng của kiến trúc chính là kí ức đầu về tuổi thơ (early childhood memory). Chúng ta thường cho rằng kí ức tuổi thơ là sản phẩm của sự nhận thức non nớt ngây ngô. Đồng thời, dù có một sự hấp dẫn to lớn nhưng khả năng ghi nhớ kí ức của trẻ em thường bị coi thường vì thiếu giá trị thực tiễn, như chính những giấc mơ của chúng ta. Nhưng cả hai ngộ nhận này đều sai lầm. Chắc chắn rằng vẫn có một số kí ức ban đầu nhất định sẽ còn lưu giữ những nhận diện cá nhân (personal identifiability) và sức mạnh cảm xúc thông qua cuộc sống của chúng ta. Chính những kí ức này có thể cung cấp những bằng chứng thuyết phục về sự quan trọng và sự nguyên bản của những trải nghiệm này, cũng như những giấc mơ và sự mơ mộng có thể tiết lộ một phần chân thật và ngẫu nhiên nhất về những gì trong đầu chúng ta.

KIẾN TRÚC KHÔNG CẦN KIẾN TRÚC SƯ

Những nguyên liệu có lợi cho việc phân tích hiện tượng học của những trải nghiệm kiến trúc cũng có thể được tìm thấy ở những lĩnh vực nghệ thuật khác, nơi mà kiến trúc được trình bày và phác họa theo những cách khác nhau. Trong thơ ca, hình ảnh được liên kết với những công trình là rất phổ biến và chúng cũng là những nguyên liệu thực cho tác phẩm của Gaston Bachelard “Những vần thơ của không gian” (La Poétique de l’Espace). Bachelard cũng đã từng viết một tác phẩm về hiện tượng học trong những bài thơ về sự mơ mộng (Những bài thơ của sự mộng tưởng- La Poétique de la Rêverie”). Những tác phẩm đó, có rất nhiều điểm liên kết với nghệ thuật của những công trình bất kể chủ đề phi kiến trúc của chúng. Trong văn học, nhiếp ảnh, điện ảnh và hội họa, ngôn ngữ bí mật nơi mà những vùng đất, những công trình xây dựng hoặc những đối tượng ảnh hưởng đến con người thường đóng vai trò quan trọng. Có một vài ví dụ trong văn học cổ điển của Nga, những bộ phim của Alfred Hitchcock và Andre Tarkovski, những bức ảnh của Walker Evan hoặc phần kiến trúc được thể hiện trong tranh vẽ, từ những hình ảnh thời Phục Hưng cho đến những phong cảnh về sự cô đơn siêu hình của Edward Hopper và những căn phòng đầy chứa đầy sự băn khoăn đầy tính dục. Khi một nhà văn, một đạo diễn phim, hay một họa sĩ phải truyền đạt đến mọi người một sự kiện, họ thường sử dụng một bối cảnh hoặc một nơi chốn như một phương tiện để thực hiện sự truyền đạt đó. Nói cách khác, những nghệ sĩ này đang thực hiện công việc thiết kế kiến trúc mà không cần khách hàng, không có sự tính toán kết cấu hoặc giấy phép xây dựng. Sự biểu hiện của kiến trúc trong các môn nghệ thuật khác chính là một cái nhìn thuần khiết (pure looking) theo cái cách mà một đứa trẻ cảm nhận về sự việc, đối với luật lệ trong những nguyên tắc kiến trúc mà không quy định những trải nghiệm hay cách thức mà nó được biểu hiện.

KIẾN TRÚC CỦA KÍ ỨC

Phần kiến trúc bên trong của tâm trí xuất phát từ cảm xúc và những hình ảnh kí ức được xây dựng dựa trên những nguyên tắc của kiến trúc được phát triển bởi những phương thức tiếp cận chuyên nghiệp. Cá nhân tôi cho rằng bản thân tôi không thể nhớ về một khung cửa sổ hay một cánh cửa cụ thể từ trong kí ức tuổi thơ của mình nhưng tôi vẫn có thể ngồi bên cạnh những ô cửa sổ của những kí ức mà nhìn ra một khu vườn đã biến mất từ rất lâu hoặc một khu đất vốn bị bỏ hoang giờ đây được che phủ với những tán cây. Tôi cũng có thể bước qua vô số những cách cửa của kí ức và nhận ra một sự ấm áp trong bóng tối với một thứ mùi của những căn phòng ở phía bên kia cánh cửa.

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)

Hình thái của Cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 1)

Featured

Juhani Pallasmaa

Tóm tắt:

Bài tiểu luận của kiến trúc sư nổi tiếng người Phần Lan, Juhani Pallasmaa, giới thiệu về phương pháp luận Hiện tượng học trong kiến trúc và một cách tư duy, tiếp cận mới trong việc tạo ra những trải nghiệm không gian cùng những kết nối tinh thần sâu sắc giữa môi trường xây dựng và con người. Đồng thời tác giả cũng đặt lại những câu hỏi về bản chất và giá trị cốt lõi của kiến trúc trong đời sống con người ngày nay.


Lời người dịch

Không gian ý niệm”- Lần đầu tiên tôi được nghe đến khái niệm này là khi đang học năm thứ 3 ngành Thiết kế nội thất (sau này khoa đã được đổi tên thành Kiến trúc nội thất), đại học Kiến trúc TP.HCM. Thầy tôi khi ấy đã nói rằng không gian ý niệm chính là đỉnh cao trong thiết kế không gian, thiết kế dựa trên những thứ vô hình (cảm xúc) và truyền đạt nó thông qua những thứ hữu hình (ngôn ngữ thiết kế), như một dạng cầu nối trực tiếp nhất giữa thế giới vật chất hữu hình (không gian vật lý, kiến trúc, nội thất) với thế giới nội tâm vô hình nhưng sâu thẳm bên trong mỗi con người. Khái niệm này đã ám ảnh tôi suốt một thời gian dài và cho đến tận bây giờ. Để theo đuổi giới hạn này, chúng ta trước hết phải có đủ can đảm và liều lĩnh đặt chân vào nơi sâu thẳm nhất trên thế giới- nội tâm con người, nơi mà theo nhà tâm lý học phân tích nổi tiếng người Thụy Sĩ, Carl Jung, chính là:

a vast territory… it was a mystery that challenge the adventuresome with the prospect of rich discovery and frightened the timid with the threat of insanity… the whole world hangs on a thread and that thread is the human psyche.” (Murray, 1998).

một địa hạt mênh mông rộng lớn… nó (tâm lý con người) là một bí ẩn đầy thách thức với những kẻ ưa mạo hiểm cùng với phần thưởng là một sự khám phá to lớn nhưng cũng đồng thời làm những người rụt rè e sợ bởi nguy cơ bị mất trí… cả thế giới được treo trên một sợi chỉ và sợi chỉ đó chính là nội tâm con người

Thế nhưng sau đó, bằng cách nào để có thể tạo ra sự kết nối giữa thế giới vô hình tưởng chừng như xa xăm đó với một không gian xây dựng vật lý khi ngày nay, phần lớn những thử nghiệm trong thiết kế nội thất đều xoay quanh xu hướng và phong cách- những yếu tố bên ngoài, hữu hình và tồn tại ngắn hạn?

6 năm sau, vào năm 2018, khi đang tiến hành nghiên cứu cho luận án Thạc sĩ của tôi tại Anh, câu hỏi này đã bắt đầu được giải đáp nhờ vào bài tiểu luận Hình thái của cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện tượng học trong kiến trúc của Juhani Pallasmaa. Đây là một chương trong cuốn sách Lý luận cho một kỉ nguyên mới trong kiến trúc- Tuyển tập các bài lý luận kiến trúc (Theorizing a New Agenda for Architecture- an Anthology of Architectural Theory) được xuất bản vào năm 1996.

Vậy hiện tượng học (phenomenology) là gì? Hiện tượng học hay triết học hiện tượng là một trong những khám phá mang tính đột phá của triết học phương Tây ở thế kỉ 20. Ở đây, “hiện tượng” (phenomenon) được hiểu là tất cả các hiện tượng của ý thức theo một nghĩa phổ quát.

Thông thường ý thức hướng ra thế giới bên ngoài. Trong đời sống và trong hoạt động khoa học chúng ta xuất phát từ một lòng tin thâm căn cố đế vào sự tồn tại khách quan, không lệ thuộc và ý thức của thế giới xung quanh. Đã đến lúc cần từ bỏ cách đặt vấn đề “có tính chất tự nhiên” này, quay sự chú ý của chúng ta vào thế giới bên trong, vào chính ý thức. Thế giới bên ngoài, thế giới được xem như đối tượng không phải là mối quan tâm cơ bản. Đối tượng của triết học là ý thức – một “siêu việt tính lý tưởng”. Chỉ trong môi trường của tồn tại lý tưởng ấy chân lý mới phát lộ ra cho ta bằng con đường trực giác bản chất. Nội dung của ý thức “thuần túy” cũng là đối tượng của sự nghiên cứu hiện tượng học.” (Triethoc.edu.vn, 2014)

Bài tiểu luận nàyđã gợi mở cho tôi rất nhiều về sự kết nối ý thức giữa con người với không gian sử dụng. Nhìn lại lịch sử phát triển bắt đầu từ thế kỉ 20, ta có thể nhận thấy rằng sự chú ý của phần lớn các ngành, lĩnh vực nghiên cứu đều đổ dồn vào một loạt những thành tựu vĩ đại về khoa học kĩ thuật, công nghệ mà dừơng như bỏ quên đằng sau một vùng đất bí ẩn và nhưng cũng đầy hứa hẹn khác nằm trong chính tâm trí mỗi con người chúng ta. Sự ra đời của triết học, phương pháp luận Hiện tượng học và ứng dụng của nó trong kiến trúc nói riêng và thiết kế không gian nói chung đã giúp đánh thức sự tập trung của người thiết kế vào việc tìm hiểu, nghiên cứu và thiết lập một mối liên hệ sâu sắc từ trong ra ngoài (inside out) giữa con người và không gian sử dụng, không ngừng thúc đẩy giới hạn của thiết kế đến một mức độ sâu sắc và tinh tế hơn rất nhiều.

Để tìm hiểu kĩ hơn về sự hình thành và quá trình phát triển của triết học hiện tượng và hiện tượng học trong kiến trúc, bạn có thể vào đây:

https://kienviet.net/2013/12/11/hien-tuong-hoc-kien-truc/

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

Không gian trải nghiệm Khoảng trống kí ức (Memory void) tại Bảo tàng Do thái, Berlin, Đức

Nội dung bài tiểu luận Hình thái của cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện tượng học trong kiến trúc của Juhani Pallasmaa

Vì sao có rất ít những công trình hiện đại có thể khơi gợi cảm xúc của chúng ta, trong khi gần như bất kì một ngôi nhà vô danh nào ở một thị trấn cũ hay một nông trại khiêm tốn ngoài trời đều có thể đem đến cho con người một cảm giác thân thuộc và thoải mái? Tại sao những nền đá mà chúng ta tìm thấy ở những đồng cỏ um tùm, một kho thóc đổ nát hay một ngôi nhà nổi bỏ hoang đều có thể kích thích trí tưởng tượng của con người trong khi chính những ngôi nhà mà ta ở lại đang bóp chết những sự mơ mộng đó? Những công trình xây dựng trong thời đại ngày nay có thể khơi dậy sự tò mò ở con người nhờ vào khả năng sáng tạo đầy táo bạo nhưng chúng lại khó lòng đem đến cho chúng ta bất kì ý nghĩa nào về thế giới này cũng như sự tồn tại của chính mình.

Ngày nay, có nhiều nỗ lực đang được thực hiện để làm hồi sinh thứ ngôn ngữ kiến trúc đã bị suy yếu thông qua một cách diễn đạt phong phú hơn và làm sống lại những chủ đề lịch sử. Tuy nhiên, dù có một sự đa dạng mạnh mẽ trong cách tiếp cận, nhưng với một cách thể hiện khô cứng mang đậm tính kĩ thuật như trong lĩnh vực xây dựng, thứ mà họ đang cố chống lại, những tác phẩm tiên phong này dường như chỉ đem lại một cảm giác mất mát to lớn về ý nghĩa

Sự kiệt quệ về ý nghĩa nội tại của kiến trúc đã được phân tích kỹ trong rất nhiều bài viết về lí luận kiến trúc gần đây. Một vài tác giả cho rằng kiến trúc của chúng ta quá nghèo nàn về hình thức, một số khác lại cho rằng hình thức của chúng (kiến trúc) thì lại quá trừu tượng hoặc hàn lâm. Từ trên quan điểm của triết học văn hóa, toàn bộ hệ thống chủ nghĩa duy vật khoái lạc (hedonistic materialism) của chúng ta dường như đang đánh mất đi khía cạnh tinh thần, điều mà nhìn chung có thể xứng đáng được duy trì lâu dài.


KIẾN TRÚC NHƯ MỘT TRÒ CHƠI VỚI HÌNH KHỐI

Trong quá trình chuyển đổi thành một chuyên ngành đặc thù, kiến trúc đã dần dần tự tách rời bản thân khỏi nền tảng dự tính ban đầu, trở thành một chuyên ngành ngày càng bị chi phối toàn diện bởi một hệ thống giá trị và luật lệ riêng biệt. Kiến trúc đang dần trở thành một lĩnh vực của công nghệ, nhưng vẫn mạo hiểm tự nhận bản thân là một hình thức biểu đạt tự do của tính nghệ sĩ.

Ngoài ra vẫn có những một bằng chứng bổ sung khác có thể chứng minh rằng kiến trúc đang tự tách rời khỏi nền tảng và mục đích đúng đắn của mình. Ở đây, tôi muốn đề cập đến một góc nhìn về mối quan hệ giữa hình thức kiến trúc và phương thức trải nghiệm kiến trúc. Lập luận của tôi cho rằng quy hoạch, bố trí đang bị biến thành một dạng trò chơi về hình khối theo một cách cực đoan và giá trị thật sự của việc trải nghiệm một công trình đang bị xem nhẹ. Chúng ta đang phạm sai lầm trong suy nghĩ và đánh giá một công trình như một sự tổng hợp cứng nhắc của hình khối, mà không hiểu rằng chúng chính là biểu tượng hoặc sự trải nghiệm của một thực tế khác, một thực tế nằm sau những biểu tượng.

Đã đến lúc chúng ta cần xem xét liệu rằng hình thức hay hình khối về tổng thể liệu có thể khơi dậy những cảm xúc kiến trúc (architectural feeling) hay không. Hình thức có phải là những yếu tố cơ bản duy nhất của toàn bộ kiến trúc không? Và liệu những yếu tố khác của công trình như tường, cửa sổ hay cửa đi có phải là những đơn vị thật sự của cảm xúc kiến trúc không?

NHẦM TƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA ELEMENTARISM (CHỦ NGHĨA SƠ BỘ)

Những tiến bộ của khoa học hiện đại đã bị kiểm soát bởi nguyên tắc của chủ nghĩa sơ bộ (elementarism) và chủ nghĩa cắt giảm (reductionism). Khi xem xet một hiện tượng, người ta thường chia nhỏ nó ra thành những yếu tố cơ bản và các mối liên hệ cơ bản, sau đó đánh giá hiện tượng đó như một sự tổng hợp của các yếu tố này.

Quan điểm của chủ nghĩa sơ bộ cũng chi phối lý luận, giảng dạy và thực hành trong nghệ thuật và kiến trúc. Điều này cũng đồng thời bị giới hạn chỉ cho nghệ thuật của thị giác. Trên nền tảng của hệ tư tưởng được truyền đạt bởi trường Bauhaus, kiến trúc được giảng dạy và phân tích như một trò chơi với hình khối và không gian. Người ta cho rằng đây cách để đạt được một sự kích thích thị giác dựa trên chức năng của nhận thức thị giác được nghiên cứu bởi tâm lý học nhận thức. Một công trình được nhìn nhận như một tổ hợp chắc chắn được xây dựng dựa trên sự lựa chọn của các yếu tố có sẵn mà mất đi sự liên hệ với thực tế về trải nghiệm bên ngoài của chính bản thân công trình, đó là chưa kể đến sự nỗ lực một cách tỉnh táo để phác họa và biểu hiện rõ ràng lĩnh vực của nhận thức của chúng ta.

Thế nhưng chẳng phải một tác phẩm nghệ thuật thật ra chính là sự đối nghịch với toàn bộ ý tưởng về chủ nghĩa sơ bộ sao? Chắc chắn rằng ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật được khai sinh từ tổng thể, từ một ý tưởng kết nối các bộ phận chứ không hề là sự tổng hợp của các yếu tố.

Việc phân tích cấu trúc cứng nhắc của một công trình kiến trúc không phải lúc nào cũng có thể giúp biểu đạt chất nghệ sĩ của một toàn nhà hay việc chúng tạo ra những hiệu ứng này như thế nào.

KIẾN TRÚC CỦA HÌNH TƯỢNG

Tính nghệ sĩ của một tác phẩm nghệ thuật không nằm ở những thứ hữu hình hiển nhiên mà chúng chỉ tồn tại trong nhận thức của người thưởng thức. Do đó, việc phân tích một tác phẩm nghệ thuật chính là nằm ở cái nội quan chân thật nhất thông qua nhận thức ấn định lên nó. Ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật không nằm ở hình dáng mà nằm ở cái hình ảnh được chuyển hóa thông qua các hình khối và những tác động về mặt cảm xúc mà chúng chứa đựng. Hình dáng chỉ tác động đến cảm xúc của chúng ta thông qua cái mà nó muốn biểu đạt.

Do đó, nếu việc giảng dạy và phê bình không cố gắng làm rõ những chiều không gian kiến trúc được truyền tải một cách có ý thức thì họ sẽ khó lòng đạt được bất kỳ thứ gì liên quan tới bản chất nghệ thuật của kiến trúc. Những nỗ lực ngày nay để khôi phục sự giàu có của tính biểu hiện kiến trúc thông qua sự đa dạng của hình dáng thì được dựa trên một sự kém hiểu biết về bản chất của nghệ thuật. Sự giàu có của một công trình nghệ thuật nằm ở sức sống của những hình ảnh mà nó khơi gợi nên. Tuy nhiên sự mâu thuẫn nằm ở chỗ những hình ảnh được sử dụng cho phần lớn các sự diễn dịch này thì lại được khơi gợi thông qua những hình khối đơn giản và nguyên bản nhất (the simplest, most archetypal forms). Sự quay lại của Chủ nghĩa Hậu hiện đại với những chù đề cổ xưa (ancient theme) thì không có đủ lực thúc đẩy bởi vì sự cắt ghép những mô tuýp kiến trúc này đã đánh mất đi sự liên kết tự nhiên chân thật về mặt cảm xúc với bản thân kiến trúc đó.

Ezra Pound đã từng nói rằng âm nhạc sẽ bị suy thoái nếu nó tách rời quá xa khỏi điệu nhảy và thơ ca sẽ héo mòn nếu nó bị tách rời khỏi âm nhạc và câu hát. Tương tự, kiến trúc cũng có nguồn cội riêng, và nếu nó bị tách rời quá xa khỏi nguồn cội đó, kiến trúc sẽ tự đánh mất tính hiệu quả của nó. Việc làm mới một môn nghệ thuật nghĩa là tìm lại phần bản chất sâu thẳm nhất của chính nóThe renewal of an art means rediscovering its deepest essence.

Ngôn ngữ của nghệ thuật là ngôn ngữ của những biểu tượng, thứ ngôn ngữ có thể được đồng nhất với sự tồn tại của chúng ta. Nếu nó thiếu đi sự liên kết với những kí ức về giác quan nằm ở tiềm thức và liên kết với hàng loạt những giác quan khác, thì nghệ thuật sẽ có thể bị hạn chế như một thứ trang trí vô hồn. Sự trải nghiệm của nghệ thuật chính là sự tương tác giữa kí ức được biểu hiện và thế giới của chúng ta. Theo một nghĩa chung thì tất cả mọi hình thức nghệ thuật đều xuất phát từ chính cơ thể của con người. Một nhà viết tiểu luận về nghệ thuật nhận thức, Adrian Stokes, đã chỉ ra rằng:

 “…điều đó là cực kì quan trọng rằng để trải nghiệm ý nghĩa và bản chất của kiến trúc thì sự tác động đó phải được xây dựng dựa trên một sự tương đồng trong thế giới trải nghiệm của người sử dụng.”

(Còn tiếp)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 2)

HÌNH THÁI CỦA CẢM XÚC – Một góc nhìn về Hiện Tượng Học trong Kiến Trúc (Phần 3)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Murray, S. (1998) Jung’s map of the soul: An introduction. America:        Open court publishing

Triethoc.edu.vn

http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/hien-tuong-hoc/hien-tuong-hoc-den-voi-chinh-su-vat_426.html

(Last accessed 23 February 2020)

Đôi mắt của Làn Da – Kiến trúc và các giác quan

Aside

Mùa đông năm 2017, tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm giác câm lặng khi lần đầu tiên bước chân vào nhà hỏa thiêu Baumschulenweg ở Berlin, Đức. Đây vốn dĩ là một trong những công trình yêu thích của tôi từ thời sinh viên. Nhưng chỉ khi đến tận nơi, tự mình đắm chìm vào cái không gian mênh mông tĩnh lặng của một rừng cột bê tông cao vút “xuyên thủng” trần và thứ ánh sáng xanh trầm mặc- một sự hòa trộn giữa màu của vật liệu nhân tạo và màu của ánh sáng tự nhiên, tôi mới có thể hiểu được giá trị tinh thần và cảm được vẻ đẹp chân thực của không gian này.

Hình 1. Nhà hỏa thiêu Baumschulenweg ở Berlin, Đức (nguồn: Archdaily)

Trong suốt 5 năm học tại Việt Nam, tôi luôn tự hỏi tại sao giá trị của một đồ án thiết kế nội thất luôn được đánh giá thông qua các yếu tố hữu hình và các giá trị ngắn hạn, vậy còn cảm xúc và trải nghiệm của con người khi sử dụng không gian ấy?

Đến cuối cùng thì đâu là giá trị cốt lõi của một không gian nội thất khi không gian bên trong (inside space), nơi tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với con người và hoạt động hằng ngày của họ nhưng lại không thể gợi lên cảm xúc và tồn tại trong kí ức của người sử dụng?

Lời giải cho những câu hỏi này bắt đầu được định hình từ cái khoảnh khắc mà tôi bước vào nhà hỏa thiêu năm đó và dần trở nên rõ ràng hơn khi tôi đọc được những bài tiểu luận của kiến trúc sư người Phần Lan- Juhani Pallasmaa về mối liên hệ giữa kiến trúc với ý nghĩa của sự tồn tại con người thông qua các trải nghiệm không gian và khái niệm Hiện tượng luận (Phenomenology) trong kiến trúc.

Hình 2. Bìa quyển sách The eyes of the skin (Juhani Pallasmaa)


Đôi mắt của Làn da (The Eyes of the Skin), được xuất bản lần đầu vào năm 1996, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Juhani Pallasmaa và cũng là một cuốn sách kinh điển trong giảng dạy lí luận kiến trúc. Cuốn sách đặt ra những câu hỏi cơ bản nhất về nguồn gốc, quá trình phát triển và hệ quả tất yếu của sự thống trị của thị giác so với 4 giác quan còn lại trong cảm thụ nghệ thuật nói chung và đặc biệt trong thiết kế kiến trúc nói riêng. Juhani cho rằng việc đè nén những giác quan khác đã khiến khả năng kết nối tinh thần giữa con người với không gian trở nên chai sạn. Ý tưởng này cũng được thể hiện rất rõ thông qua một loạt những câu hỏi được đặt ra trong phần mở đầu ở một bài tiểu luận khác của Juhani Pallasmaa, Hình thái của cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện tượng luận trong kiến trúc (The geometry of feeling- A look at the phenomenology of architecture) (Frampton 1992):

“Why do so very few modern buildings appeal to our feelings, when almost any anonymous house in an old town or the most unpretentious farm outbuilding gives us a sense of familiarity and pleasure? Why is that the stone foundations we discover in an overgrown meadow, a broken down barn or an abandoned boat house can arouse our imagination, while our own houses seem to stifle and smoother our daydream? The buildings of our own time may arouse our curiosity with their daring or inventiveness, but they hardly give us any sense of the meaning of our world or our own existence”

“Vì sao có rất ít những công trình hiện đại có thể khơi gợi cảm xúc của chúng ta, trong khi gần như bất kì một ngôi nhà vô danh nào ở trong một thị trấn cũ hay một nông trại khiêm tốn ngoài trời đều có thể đem đến cho chúng ta một cảm giác thân thuộc và thoải mái? Tại sao những cái nền đá mà chúng ta tìm thấy ở những đồng cỏ um tùm, một cái kho thóc đổ nát hay một cái nhà nổi bỏ hoang đều có thể kích thích trí tưởng tượng của con người trong khi chính những ngôi nhà mà ta đang ở lại bóp chết sự mơ mộng của chúng ta? Những công trình xây dựng trong thời đại ngày nay có thể khơi dậy sự tò mò ở con người nhờ sự sáng tạo hấp dẫn nhưng chúng lại khó lòng đem đến cho chúng ta bất kì ý nghĩa nào về thế giới này cũng như sự tồn tại của chính chúng ta.”

Đây bản dịch của chương đầu tiên trong cuốn sách với hy vọng giới thiệu một nguồn thông tin hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.


Thị giác và Kiến thức

Trong văn hóa phương Tây, tầm nhìn (sight) vẫn luôn được đánh giá là một giác quan nổi bật nhất, và bản thân khái niệm này cũng mang ý nghĩa của “sự nhìn thấy” (seeing). Trong tư tưởng Hy Lạp cổ điển, sự chắc chắn (certainty) được dựa trên tầm nhìn (vision) và sự nhìn thấy (visibility). “Đôi mắt là bằng chứng xác thực hơn đôi tai”, như Heraclitus đã viết trong một trong những bản nháp của ông. Còn Plato thì công nhận tầm nhìn như một món quà vĩ đại nhất của loài người và ông khẳng định rằng những vũ trụ có đạo đức (ethical universals) thì phải được tiếp cận thông qua “đôi mắt của trí não” (the mind’s eyes). Aristotle, tương tự, cũng cho rằng thị giác là một trong những giác quan quan trọng nhất bởi vì nó rất gần với trí tuệ nhờ vào sự phi vật chất một cách tương đối của những gì nó biết.

Sau người Hy Lạp, những bài viết triết học trong mọi thời kỳ đều chứa đầy những ẩn dụ về thị giác tới mức kiến thức đã được đồng nhất với một tầm nhìn rõ ràng (clear vision) và ánh sáng được xem như một phép ẩn dụ của chân lý. Aquinas thậm chí đã ứng dụng khái niệm của sự nhìn thấy vào những giác quan khác cũng như vào khả năng nhận thức của trí tuệ (intellectual cognition)

Tác động của tầm nhìn lên triết học đã được tổng kết rất hay bởi Peter Sloterdijk: “Đôi mắt là một nguyên mẫu sinh học của triết học. Điều bí ẩn của chúng là chúng không chỉ có thể nhìn mà cũng có thể nhận thức được sự nhìn của chính nó. Điều này khiến chúng trở nên nổi bật hơn so với những bộ phận nhận thức khác của cơ thể. Một cái hay của tư duy triết học chính là ở sự phản xạ của mắt (eye reflex), sự biện chứng của mắt (eye dialectic), tự nhìn thấy chính mình.” Trong suốt thời kỳ Phục Hưng, 5 giác quan được quan sát để hình thành một hệ thống thứ bậc của các giác quan, từ thị giác ở vị trí cao nhất xuống dần đến xúc giác. Hệ thống các giác quan thời kì Phục Hưng được liên hệ với hình ảnh cơ thể của vũ trụ (cosmic body); thị giác được liên hệ với lửa và ánh sáng, thính giác với không khí, khứu giác với không khí, vị giác với nước và xúc giác với đất.

Việc phát minh ra những bản vẽ phối cảnh đã khiến đôi mắt trở thành trung tâm của thế giới nhận thức cũng như khái niệm của bản thể. Bản vẽ phối cảnh (perspectival representation) đã tự thân nó trở thành một hình thức biểu tượng của không chỉ sự miêu tả mà còn là cơ sở của sự nhận thức.

Hình 3. Tranh vẽ của Nicolas Ledoux, một kiến trúc sư với nhiều tranh vẽ thể hiện rõ vị trí lấy thi giác làm trung tâm của nhận thức (Pallasmaa 2012)

Không thể phủ nhận rằng chính nền văn hóa công nghệ của chúng ta đã khiến các giác quan bị phân hóa ngày một sâu sắc hơn. Thị giác và thính giác ngày nay trở thành những giác quan đặc quyền của xã hội (privileged sociable sense), trong khi 3 giác quan khác bị xem như những giác quan sơ khai còn sót lại (archaic sensory remnants) chỉ mang chức năng của cá thể và chúng thường bị đèn nén bởi những những nguyên tắc xã hội. Chỉ những cảm giác như sự sung sướng của khứu giác đến từ một món ăn, mùi hương của những bông hoa hay sự phản ứng với nhiệt độ có thể gây được sự chú ý của cộng đồng dựa trên những điều lệ xã hội lấy thị giác làm trung tâm (ocularcentric) và bị ám ảnh bởi sự sạch sẽ.

Sự thống trị của thị giác so với những giác quan khác và hệ quả tất yếu (của nó) tạo ra trong nhận thức đã được quan sát bởi nhiều nhà triết gia. Một bộ sưu tập những bài luận triết học với tiêu đề Sự Hiện Đại và Sự Thống Trị của Thị Giác (Modernity and The Hegemony of Vision) cho rằng “bắt đầu từ người Hy Lạp cổ đại, văn hóa phương Tây đã bị thống trị bởi một hình mẫu lấy thị giác làm trung tâm (ocularcentric paradigm), được tạo ra bởi thị giác, và xem thị giác như trọng tâm trong sự diễn dịch kiến thức, chân lý và thực tiễn.” Cuốn sách đáng suy ngẫm này đã phân tích sự liên kết mang tính lịch sử giữa thị giác và tri thức, thị giác và bản thể học (ontology), thị giác và sức mạnh, thị giác và đạo đức.

Như một hình mẫu lấy thị giác làm trung tâm trong mối quan hệ của chúng ta với thế giới và với khái niệm về tri thức, tính tri thức luận đặc quyền của thị giác (the epistemological privileging of vision) đã được xác nhận bởi những triết gia, việc khảo sát một cách thấu đáo vai trò của thị giác trong mối quan hệ với những giác quan khác trong tầm hiểu biết và thực tiễn của nghệ thuật kiến trúc là rất quan trọng. Kiến trúc, cũng như với tất cả những môn nghệ thuật khác, luôn phải đối chất từ gốc rễ với những câu hỏi liên quan tới sự tồn tại của loài người trong không gian và thời gian, và đồng thời nó (kiến trúc) cũng biểu hiện và liên quan tới sự tồn tại của con người trong thế giới này. Kiến trúc được gắn kết một cách sâu sắc với những câu hỏi mang tính triết lý (metaphysical questions) về bản ngã và thế giới, cái nội tại (interiority) và cái ngoại biên (exteriority), thời gian (time) và thời hạn (duration), sự sống và cái chết.

Sự thực hành về thẩm mỹ và văn hóa luôn nhạy cảm một cách kì lạ nhưng chính xác với sự thay đổi không ngừng trong trải nghiệm về không gian và thời gian. Đó là vì chúng (sự thực hành) bao gồm sự cấu thành của những miêu tả về mặt không gian (spatial representation) cũng như các hiện vật (artefact) mang tính không gian nằm ngoài dòng chảy trải nghiệm của con người,” David Harvey viết.

Kiến trúc là phương tiện cơ bản nhất để kết nối chúng ta với không gian và thời gian và khiến cho những chiều kích thước này gần hơn với tỉ lệ con người (a human measure). Nó địa phương hóa những không gian vô tận và thời gian vô biên và khiến chúng trở nên dễ chấp nhận, dễ cư ngụ và dễ thấu hiểu hơn bởi loài người. Như một hệ quả của sự phụ thuộc lẫn nhau giữa không gian và thời gian, sự biện chứng của những không gian bên trong và bên ngoài, lý tính (physical) và tinh thần (spiritual), vật chất (material) và tinh thần (mental), những ưu tiên trong nhận thức hoặc vô thức về các giác quan cũng như vai trò và những tương tác mang tính tương đối, đều có một tác động sâu sắc lên bản chất của các môn nghệ thuật và kiến trúc.

David Michael Levin thúc đẩy những phê bình mang tính triết lý về sự thống trị của đôi mắt bằng những từ sau:

Tôi cho rằng nó hoàn toàn phù hợp để thách thức sự bá chủ của thị giác- chủ nghĩa thị giác tập trung trong văn hóa của chúng ta. Và tôi cho rằng chúng ta nên kiểm tra một cách hết sức cẩn thận và thấu đáo tính chất vượt trội của thị giác ngày nay trong thế giới của chúng ta. Chúng ta rất cần một sự chuẩn đoán về bệnh lý tâm lý học xã hội (psychological pathology) của việc nhìn mỗi ngày- một cách hiểu phản biện về chính bản thân chúng ta như một đối tượng được nhìn thấy’

Levin chỉ ra rằng động lực tự thân, sự bá chủ của thị giác cùng sự “ám ảnh của những luật lệ gia trưởng” đã đeo bám văn hóa trọng thị giác của chúng ta:

Có một sự khao khát quyền lực rất to lớn trong thị giác. Có một khuynh hướng rất mạnh mẽ trong thị giác để nắm bắt và chiếm giữ, để cụ thể hóa và tổng hòa, một khuynh hướng thống trị, bảo đảm và kiểm soát, điều mà cuối cùng, nhờ được hỗ trợ một cách mạnh mẽ và được xem như một sự thống trị hiển nhiên trong văn hóa của chúng ta và trong những diễn giải triết học, đang tạo ra bằng cách nắm giữ sự duy lí cốt lõi trong văn hóa và những đặc tính kĩ thuật trong xã hội, một lý thuyết siêu hình học trọng thị giác về sự tồn tại.

Tôi tin rằng rất nhiều khía cạnh trong bênh lý của kiến trúc hằng ngày ngày nay có thể được hiểu một cách tương tự, thông qua sự phân tích về tri thức luận của các giác quan và một sự phê bình về khuynh hướng thị giác của văn hóa chúng ta nói chung và của kiến trúc nói riêng. Sự phi con người trong kiến trúc đương đại và trong các thành phố có thể hiểu như một hệ quả của việc chối bỏ cơ thể và các giác quan, cùng một sự bất cân đối trong hệ thống cảm nhận của chúng ta. Ví dụ như những trải nghiệm không ngừng về sự xa lạ, tách biệt và cô đơn trong xã hội công nghệ ngày nay có thể liên hệ tới một số bệnh lý cụ thể về các giác quan. Nó đáng suy ngẫm rằng sự xa lạ hóa và tách biệt hóa thường được gợi lên bởi những hình thức kiến trúc công nghệ tiên tiến, ví dụ như bênh viện hay sân bay.

Sự thống trị của đôi mắt và sự đè nén những giác quan khác sẽ đẩy con người vào sự thờ ơ (detachment), cô lập (isolation) và sự bên rìa (exteriority). Nghệ thuật của đôi mắt chắc chắn đã sản sinh ra những kết cấu (kiến trúc) hùng vĩ và sâu sắc, nhưng nó đã không thể khiến con người gắn kết sâu sắc hơn với thế giới này. Có một sự thật rằng sự biểu hiện của chủ nghĩa hiện đại nói chung đã không thể, về cơ bản, chạm tới khẩu vị và những giá trị chung (của con người), có lẽ bởi vì sự tập trung về nhận thức một cách đơn chiều và mang nặng tính hình thức. Những thiết kế hiện đại nói chung đã che chở cho lý trí và đôi mắt nhưng ngược lại nó đã bỏ rơi cơ thể và những giác quan khác cũng như (cách con người đối xử với) kí ức, trí tưởng tượng và những giấc mơ.

Modernist design at large has housed the intellect and the eye, but it has left the body and the other senses, as well as our memories, imagination and dreams, homeless.

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Frampton, K. (1992) Modern architecture: A critical history, 3rd ed., United Kingdom: Thames & Hudson

Pallasmaa, J. (2012) The eyes of the skin, 3rd ed., United Kingdom: John Wiley & Sons Ltd