Kiến trúc cho người nghèo (phần 3)

Aside

Kiến trúc cho người nghèo (phần 1)

Kiến trúc cho người nghèo (phần 2)

….

Vai trò của truyền thống

Truyền thống là một sự tương đồng mang tính xã hội của những thói quen cá nhân, và trong nghệ thuật nó cũng đóng vai trò tương tự. Truyền thống giúp giải phóng người nghệ sĩ khỏi những lựa chọn dễ gây xao nhãng và không cần thiết, để từ đó, họ có thể đặt toàn bộ tâm trí vào vấn đề cốt lõi nhất. Khi một lựa chọn mang tính nghệ thuật được thông qua, bất kể khi nào và bởi ai, thì nó đều không thể vãn hồi mà không gây ra thiệt hại, và do đó nó nên nằm trong ngưỡng chung về thói quen để không gây phiền nhiễu cho chúng ta về sau.

Truyền thống không nhất nhiết là lỗi thời và cũng không đồng nghĩa với lạc hậu. Ngoài ra, truyền thống không cần phải có xuất phát điểm quá xa xôi mà có thể bắt nguồn gần đây. Ngay khi con người lao động đầu tiên gặp một vấn đề và tìm cách vượt qua nó thì đó là bước đầu tiên trong quá trình hình thành truyền thống được tiến hành. Khi một người lao động khác quyết định sử dụng lại cùng một giải pháp, truyền thống bắt đầu được định hình và khi người lao động thứ ba quyết định tiếp nối và thêm vào đó sự đóng góp của cá nhân, truyền thống gần như được hình thành. Đối với một vài vấn đề dễ giải quyết, con người có thể quyết định trong vài phút. Thế nhưng cũng có những vấn đề đòi hỏi thời gian, có thể là một ngày, một năm hay thậm chí cả một đời người. Trong những trường hợp trên, giải pháp đôi khi chỉ là sản phẩm của một người.

Tuy nhiên, cũng có những giải pháp chỉ được tìm ra sau khi trải qua rất nhiều thế hệ, thời điểm mà truyền thống đóng vai trò sáng tạo. Những giải pháp đó chỉ có thể được thực hiện bởi truyền thống, bởi sự trân trọng và sự đóng góp vào thành quả của những thế hệ đi trước, rằng mỗi thế hệ đều có thể tạo ra những thúc đẩy tích cực vào giải pháp của vấn đề. Khi truyền thống giải quyết được một bài toán khó và có dấu hiệu chậm lại, đó là lúc chu trình của nó đã được hoàn thiện. Thế nhưng, trong kiến trúc, cũng như trong những hoạt động khác của loài người và trong tự nhiên, có những chu trình chỉ vừa bắt đầu, một số đã hoàn thiện, và một số khác đang trong giai đoạn phát triển và tất cả chúng đều cùng tồn tại trong một xã hội.

Cũng có những truyền thống đưa ta quay về lại thời kì sơ khai của loài người. Những truyền thống đó vẫn đang sống và có lẽ sẽ trường tồn cùng với xã hội loài người như truyền thống trong nghề làm bánh mì hay truyền thống trong nghề đúc gạch.

Mặt khác, cũng có những truyền thống mặc dù chỉ mới xuất hiện và chỉ đang ở trong những giai đoạn đầu của chu trình phát triển, thực tế đã được định là chết.  Chủ nghĩa hiện đại không có nghĩa là năng nổ và thay đổi thì không phải lúc nào cũng tốt hơn. Ngược lại cũng có những trường hợp đòi hỏi sự cải cách. Quan điểm của tôi là cải cách bắt buộc phải là một giải pháp thấu đáo cho một sự thay đổi trong những điều kiện nhất định chứ không vì chiều theo lợi ích của chính nó. Không ai hỏi rằng liệu trạm điều khiển không lưu được xây dựng dựa trên thói quen của người nông dân và một kết cấu công nghiệp như trạm điện hạt nhân có thể tạo ra một truyền thống mới cho những người thiết kế.

Khi một truyền thống cụ thể được xác lập và chấp nhận, nhiệm vụ của mỗi một nghệ sĩ là duy trì truyền thống đó với sự sáng tạo của mình và một cái nhìn sâu sắc để từ đó tạo ra động lực thúc đẩy chu kì phát triển của truyền thống từ chỗ thoát khỏi sự trì trệ cho đến khi hoàn thiện. Truyền thống sẽ giúp đỡ người nghệ sĩ trong nhiều quyết định nhưng đổi lại họ cũng có nhiệm vụ ngăn cản sự lụi tàn của truyền thống trong khả năng của mình. Thực tế chỉ ra rằng, khi truyền thống càng phát triển, người nghệ sĩ càng phải nỗ lực hướng về nó nhiều hơn.

Truyền thống đối với những người nông dân chính là thành trì bảo vệ duy nhất cho văn hóa của họ. Người nông dân không thể phân biệt thứ bậc giữa những phong cách xa lạ và nếu họ bị trật khỏi đường ray truyền thống, họ sẽ không thể tránh khỏi những tai họa. Quyết tâm phá vỡ truyền thống trong một xã hội truyền thống từ gốc như của những người nông dân chính là một dạng sát thủ truyền thống và người kiến trúc sư phải thể hiện sự tôn trọng với truyền thống mà họ đang xâm phạm. Trong khi những giải pháp  mà họ ứng dụng trong thành thị lại là một vấn đề khác, bởi vì ở nơi đó, người dân và môi trường đô thị có thể tự chăm sóc bản thân mình.

Những kiến trúc sư nên tin rằng truyền thống không phải là rào cản với đối họ. Khi toàn bộ sức mạnh của trí tượng con người được chống lưng bởi sức nặng của một truyền thống đang sống, thì kết quả tác phẩm của họ sẽ tốt hơn rất nhiều so với bất kì một nghệ sĩ nào không dựa vào hoặc chối bỏ truyền thống của chính họ.

Nỗ lực của một người có thể đem lại một tiến bộ hoàn toàn không cân xứng nếu như người đó đang xây dựng dựa trên truyền thống sẵn có. Điều đó giống như thêm một tinh thể siêu nhỏ vào một giải pháp vốn đã cực kì bão hòa để từ đó cả tổng thể bỗng kết tinh lại một cách ngoạn mục. Tuy vậy sự kết tinh trong nghệ thuật thì khác, nó không phải là thứ chỉ xảy ra một lần và mãi mãi mà một hoạt động phản xạ cần phải luôn được làm mới. “Biết đủ tức là đủ, tức là đủ. Biết nhàn là nhàn, tức là nhàn.” (Lão Tử)

Kiến trúc vẫn luôn là một trong những môn nghệ thuật mang tính truyền thống. Một công trình kiến trúc phải được ứng dụng, hình thức của nó đa số được quyết định bởi những tiền lệ và công trình kiến trúc thường được lắp đặt trong cộng đồng nơi mà nó được nhìn thấy mỗi ngày. Người kiến trúc sư nên thể hiện sự tôn trọng với công sức của những thế hệ đi trước và cảm xúc của cộng đồng để không sử dụng kiến trúc như một công cụ quảng cáo bản thân. Sự thật rằng, không có kiến trúc sư nào mà không vay mượn từ những kiến trúc đi trước, nếu họ càng chắt lọc kỹ lưỡng từ nguyên bản thì một phần lớn thiết kế của họ một ngày nào đó cũng sẽ trở thành một phần của truyền thống. Vậy thì tại sao người kiến trúc sư phải gạt bỏ truyền thống của chính đất nước hay cộng đồng mình? Tại sao người kiến trúc sư lại cố gán ghép những hình thức ngoại lai vào truyền thống vốn có để tạo ra một tổng thể giả tạo và miễn cưỡng? Tại sao người kiến trúc sư phải xúc phạm đến những kiến trúc sư đi trước bằng việc làm biến dạng hoặc áp dụng một cách lệch lạc những ý tưởng của họ? Điều này xảy ra khi một yếu tố kiến trúc, vốn phải trải qua nhiều năm để đạt được một kích thước, hình dạng và công năng hoàn chỉnh, nay lại bị treo ngược hoặc phóng to đến mức không thể nhận dạng và mất đi tính công năng vốn có, đơn giản chỉ để tô điểm cho sự hám danh một cách ích kỷ của người kiến trúc sư.

Hãy lấy một ví dụ rằng: Con người đã mất rất nhiều năm để có thể thiết kế một kích thước chuẩn cho một ô cửa sổ trong nhiều kiến trúc truyền thống khác nhau. Ngày nay, nếu một kiến trúc sư vô tình mắc sai lầm bằng việc phóng to kích thước ô cửa sổ cho đến khi nó chiếm hữu toàn bộ bức tường, anh ta sẽ phải đối diện với một vấn đề: bức tường kính mới này sẽ nhận bức xạ gấp 10 lần so với một bức tường đặc. Bây giờ, để che bóng cho ô cửa sổ, anh ta sẽ thêm vào một tấm chắn sáng (a brise soleil) thực chất chỉ như một cái màn sáo (Venetian blind) và căn phòng vẫn sẽ nhận hơn 300% bức xạ so với một căn phòng có tường đặc. Ngoài ra, khi kiến trúc sư nới rộng độ dày của những lát chắn ở cái màn sáo từ 4cm lên 40cm để cân xứng với kích thước của bức tường kính, vậy thì kết quả sẽ là gì? Thay vì chấp nhận một nguồn sáng dịu nhẹ từ màn sáo, nó sẽ làm nhức mắt mọi người khi ở trong một căn phòng tràn ngập những mảng bóng đổ nổi bật trên cái nền sáng chói lóa.

Không chỉ thế, tầm nhìn, vốn được đảm bảo bởi thứ trước khi là bức tường kính này, nay đã bị lột trần hoàn toàn bởi những thanh chắn lớn cắt ngang. Ngay cả khi trong điều kiện khí hậu lạnh như ở Paris, một bức tường kính vẫn bị có thể bị xem như là một sự cường điệu mất quá đà. Trong suốt một mùa hè oi ả năm 1959, nhiệt độ bên trong của tòa nhà UNESCO, mặc dù đã sử dụng hệ thống máy lạnh để làm mát nhưng dưới tác động của hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ trong những bức tường kính đã tăng cao đến mức nhiều nhân viên ngất xỉu. Không cần phải bình luận thêm sau đó về sự ra đời của những bức tường kính và tấm chắn sáng ở những quốc gia nhiệt đới và thật khó để tìm ra một ví dụ về kiến trúc nhiệt đới hiện đại mà không sử dụng các yếu tố này.

Nếu như người kiến trúc sư có thể bước đi một cách tỉnh táo giữa truyền thống của văn hóa, thì họ không có gì để lo rằng chất nghệ sĩ trong họ sẽ bị bóp nghẹt. Xa hơn thế nữa, chính điều đó sẽ tự bộc lộ bản thân nó trong sự đóng góp tích cực vào truyền thống cũng như vào sự tiến bộ của nền văn hóa cộng đồng của chính người kiến trúc sư. Khi kiến trúc sư phải làm việc với một truyền thống rõ ràng, ví dụ như một ngôi làng được xây dựng bởi những người nông dân, thì họ không có quyền phá vỡ truyền thống đó chỉ vì một sự ngẫu hứng vô lý mang tính cá nhân. Những thứ có thể áp dụng ở những thành phố quốc tế như Paris, London hay Cairo sẽ giết chết một ngôi làng. Tâm trí con người vốn rất phức tạp nên mỗi một quyết định của họ đều đặc biệt. Sự phản ứng của họ với môi trường xung quanh chính là sự độc đáo của riêng họ. Khi giải quyết những bài toán liên quan đến con người, nếu bạn chỉ xem con người như một tổng thể chung chung trừu tượng và chỉ tận dụng những đặc điểm chung thì bạn đã phá hỏng đi sự độc đáo của mỗi cá thể. Những người quảng cáo lợi dụng những điểm yếu chung của con người, những nhà sản xuất cố gắng làm hài lòng thị hiếu số đông, những người làm giáo dục thì rèn luyện những phản xạ chung, tất cả những hoạt động đó đều sẽ giết chết tâm hồn. Mỗi hành động đó, việc đề cao quá mức những đặc điểm chung, đều sẽ yếu tố cá nhân bị gạt bỏ. Ở một mức độ nào đó, mỗi một cá nhân đều phải hi sinh vì tập thể, nếu không thì xã hội sẽ không thể hình thành và con người sẽ chết trong cô độc. Thế nhưng mỗi chúng ta nên tự hỏi chính bản thân mình, dựa trên đặc tính con người, làm thế nào để những yếu tố cá nhân và tập thể có thể được cân bằng. Một cách chắc chắn và dễ dàng được chấp nhận một cách rộng rãi, những kẻ quảng cáo cho cái chung đã chiến thắng và loại bỏ khỏi cuộc sống hiện đại cái truyền thống của mỗi cá thể. Sự cổ xúy cho sự tương đồng (sameness) đã chiến thắng tuyệt đối và dễ dàng loại bỏ khỏi cuộc sống hiện đại cái truyền thống của mỗi cá thể.

06

Hình 7. Mặt bằng của hai ngôi nhà của người nông dân (Fathy 1973)

07

Hình 8. Sân trong của một ngôi nhà của nông dân (Fathy 1973)

Truyền thông đại chúng, sản xuất hàng loạt, giáo dục đại trà chính là dấu ấn của xã hội hiện đại của chúng ta, nơi mà ngay cả cộng sản hay tư bản, đều giống nhau đến mức không thể phân biệt. Một người công nhân điều khiển máy trong một nhà máy chẳng hề đặt bản thân vào trong những thứ mà máy móc của anh ta tạo ra. Những sản phẩm được tạo ra bởi máy móc là đồng nhất, không mang dấu ấn cá nhân và không hấp dẫn đối với người sử dụng cũng như bản thân người thợ đứng máy (machine minder). Những sản phẩm làm bằng tay hấp dẫn với chúng ta bởi vì nó chứa đựng cảm xúc của người thợ thủ công. Mỗi một sự dị biệt, kì lạ và khác biệt là kết quả những quyết định được đưa ra tại từng thời điểm của quá trình sản xuất, sự thay đổi trong thiết kế là khi người thợ thủ công cảm thấy nhàm chán khi với sự lập lại của những mô tuýp giống nhau hay việc thay đổi màu sắc khi một màu sắc hoặc một loại chỉ dệt bị sử dụng hết, chính là bằng chứng cho sự tương tác “sống” liên tục của người thợ với nguyên liệu của mình. Do đó, khi ta sử dụng những sản phẩm đó, ta sẽ hiểu được cá tính của người thợ thủ công thông qua từng sự ngập ngừng hay tính hài hước (cài gắm bên trong sản phẩm), và cũng vì lý do này mà sản phẩm đó sẽ trở thành một phần có giá trị trong cộng đồng của nó.

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Fund, W.M (2011) New Gourna Village: Conservation and Community

Fathy, H. (1973) Architecture for the Poor: An experiment in rural Egypt, Chicago London: The University of Chicago

Kiến trúc cho người nghèo (phần 2)

Aside

Kiến trúc cho người nghèo (phần 1)

Kiến trúc cho người nghèo (phần 3)

….

Quá trình ra quyết định

Tôi cho rằng chúng ta không thể giải quyết cuộc khủng hoảng nói chung trong kiến trúc Ai Cập chỉ bằng việc xây dựng một hoặc hai ngôi nhà hay thậm chí cả một ngôi làng chỉn chu như một kiểu hình mẫu. Thay vào đó, chúng ta phải cố gắng chẩn đoán đúng bệnh để từ đó hiểu được nguyên nhân cơ bản của sự khủng hoảng này và giải quyết nó từ gốc.

Sự suy tàn của văn hóa bắt nguồn từ chính mỗi cá nhân khi họ phải đối diện với những lựa chọn mà bản thân họ không đủ khả năng đưa ra quyết định và chúng ta phải giải quyết sự khủng hoảng đó ngay từ chính giai đoạn này. Xây dựng là một hoạt động sáng tạo mà ở đó khoảnh khắc mang tính quyết định chính là thời điểm hình thành ý tưởng (the instant of conception) – thời điểm mà cái tinh thần của kiến trúc bắt đầu thành hình và tất cả những đặc điểm của một sáng tạo mới được cho hiển lộ.

Nếu như những đặc tính của một sinh vật sống là không thể thay đổi từ khoảnh khắc sự thụ tinh được bắt đầu thì đặc tính của một công trình kiến trúc được quyết định bởi một phức hợp những quyết định được lựa chọn bởi một tập thể có trách nhiệm trực tiếp trong tất cả mọi giai đoạn của quá trình xây dựng.

Do đó, thời điểm hình thành ý tưởng để tạo nên hình dáng cuối cùng của một cá thể sống hay một công trình xây dựng là một tập hợp của những giai đoạn mang tính quyết định trong tổng thể quá trình sáng tạo. Nếu chúng ta có thể xác định và nắm bắt được những giai đoạn này thì chúng ta có thể kiểm soát được toàn bộ quá trình hình thành đó.

Việc thực hành một cách có chủ đích những quyết định hay còn gọi là quá trình đưa ra quyết định chính là hoạt động trung tâm của sự sống và khi một thực thể sống có càng nhiều cơ hội được lựa chọn thì mức độ phức tạp trong đời sống của sinh vật ngày càng được nâng cao.

Từ những thực thể sống đơn giản giản nhất được biết đến như luân trùng (rotifera), loài sinh vật mà toàn bộ sự sống của chúng chỉ được phân biệt bằng hai khái niệm: ăn được (edible) và không ăn được (inedible) cho đến những sinh vật phức tạp nhất như loài người, loài sinh vật mà toàn bộ cuộc sống của chúng được lấp đầy bởi những quyết định được lựa chọn hoặc phải lựa chọn. Không có sinh vật nào trong suốt đời sống của nó mà không phải trải qua quá trình lựa chọn. Tồn tại chính là để lựa chọn. (To be alive is to make decisions)

Những quyết định mà một con người phải lựa chọn thì tinh tế hơn nhiều và đòi hỏi sự đánh giá có ý thức với nhiều nhân tố tham gia hơn hẳn so với những sinh vật đơn giản. Hơn thế nữa, những quyết định của loài người khác biệt hơn hẳn về mặt chất lượng so với những sinh vật khác vì con người có khả năng thay đổi thế giới xung quanh họ bằng những quyết định của chính họ. Những quyết định đó có thể khiến diện mạo, bản chất thế giới này thay đổi một cách sâu sắc. Bởi vì mỗi quyết định của con người đều mang một tiềm năng to lớn, cả tích cực lẫn tiêu cực, cho nên trách nhiệm của con người cũng rất nặng nề.

Đây cũng chính là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của tình trạng khó khăn của con người. Bởi vì tất cả những lựa chọn của con người đều có khả năng thay đổi thế giới nên họ không thể thoát khỏi chính những quyết định này. Con người hoàn toàn ý thức được sự tích cực hay tiêu cực mà họ gây ra cũng như vẻ đẹp hay sự xấu xí được tạo ra từ đó.

Chuyện kể rằng, ngày xưa khi thượng đế gọi các thiên thần đến để trao cho họ trách nhiệm của việc ra quyết định, các thiên thần đã từ chối một cách khéo léo để có thể mãi mãi giữ được sự hòa hợp hoàn hảo với vũ trụ này.

Thượng đế sau đó đề nghị những ngọn núi chấp nhận món quà này. Tuy nhiên những ngọn núi cũng từ chối nó, hài lòng để bị lệ thuộc vào sức mạnh của tự nhiên. Thế nhưng khi thượng đế trao cho con người sự trách nhiệm như một món quà thì những sinh vật cao ngạo đó đã chấp nhận nó mà đã không ý thức được hậu quả.

Chính vì lẽ đó mà ngày nay, con người dù muốn hay không thì luôn bị trói buộc vào trách nhiệm, thứ mà cả những thiên thần lẫn những ngọn núi đều e sợ. Nhưng đồng thời việc này cũng chứng minh được sự vĩ đại của loài người hơn hẳn những sinh vật khác. Do đó, chúng ta không được quên rằng, chúng ta đã chấp nhận thử thách và nếu bị đánh bại thì chúng ta sẽ bị xem như một sinh vật đầy tự phụ và đáng khinh nhất của tạo hóa.

Thế giới này tại bất kỳ thời điểm nào luôn là một trang giấy trắng chờ ngòi bút của chúng ta vẽ lên, từ một bãi đất trống có thể mọc lên một nhà thờ hay một đồi rác thải. Bởi vì không bao giờ có hai người khác nhau có thể ra cùng một quyết định trong cùng hoàn cảnh, nên đó là cái mà chúng ta gọi là sự đa dạng về tính cách. Quá trình đưa ra quyết định, sự lựa chọn hay sự tự biểu hiện hay văn hoa hơn có lẽ là khúc dạo đầu cần thiết cho toàn bộ quá trình bộc lộ bản thân/ tự biểu hiện.

Một quyết định sáng suốt có thể đạt được bằng cách tham khảo truyền thống hoặc dựa trên những lý luận logic và những phân tích khoa học. Cả hai quá trình trên đều có thể tạo ra kết quả tương đương: nếu truyền thống được gắn liền với những lựa chọn dựa trên những trải nghiệm thực tế của nhiều thế hệ với cùng một vấn đề thì những phân tích khoa học chỉ đơn giản là những quan sát một cách có tổ chức về các hiện tượng của vấn đề.

Những lựa chọn tinh tế nhất xảy đến khi con người tạo ra một thứ gì đó. Trong cuộc sống hằng ngày, có nhiều lựa chọn sáng suốt được đưa ra dựa trên sự hình thành của thói quen, thế nhưng việc sáng tạo ra một vật sẽ đòi hỏi (những) quyết định quy mô hơn là việc thực hiện những chức năng của cuộc sống.

Một điều tất yếu rằng một người có thể tạo ra một điều gì đó dựa trên thói quen – và điều đó sẽ chỉ tồn tại và tốt đẹp nhờ vào giá trị cuối cùng của những quyết định được đưa ra khi họ bắt đầu cố gắng tạo ra vật thể đó và đồng thời cũng nhờ vào hiệu quả từ những quyết định nhỏ xảy ra trong quá trình tạo thành dựa trên thói quen này.

Tuy vậy, cách tốt nhất để tạo ra cái đẹp không nhất thiết phải là việc tạo ra một thiết kế độc đáo hoặc nguyên bản. Sự thật rằng ngay cả trong những sáng tạo của thượng đế, ý tưởng thiết kế cũng phải được thay đổi để tạo ra tính cá thể trong loài người hay để có thể chuyển đổi tỉ lệ của vẻ đẹp giữa Cleopatra và Caliban đơn giản chỉ bằng việc điều chỉnh vị trí hoặc kích thước của đường nét trên gương mặt. Thật thú vị khi quan sát được thói quen trên thực tế có thể giải phóng con người khỏi trách nhiệm với những quyết định kém thú vị và thay vào đó, họ có thể tập trung vào những điều quan trọng hơn trong sáng tác.

Một bộ não không thể ra nhiều hơn một số lượng nhất định các quyết định trong một thời gian cố định. Do đó một vài quyết định trong số đó được chuyển về tình trạng vô thức. Một người thợ dệt thảm với kĩ năng điêu luyện đến mức không cần phải suy nghĩ về từng chuyển động một mà có thể chỉ cần tập trung vào thiết kế của tấm thảm như thể nó được dệt ra từ chính những ngón tay của cô ấy. Người thợ ấy như một nhạc sĩ- một người có thể đặt toàn bộ tâm trí của mình vào việc trình diễn tác phẩm mà không cần phải chú tâm vào từng ngón tay của mình như thể nó có thể tự tạo ra âm thanh.

(Còn tiếp)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Fund, W.M (2011) New Gourna Village: Conservation and Community

Fathy, H. (1973) Architecture for the Poor: An experiment in rural Egypt, Chicago London: The University of Chicago

Kiến trúc cho người nghèo (phần 1)

Aside

Năm 2018, tôi đang theo học chương trình thạc sĩ Kiến trúc Nội thất tại Scotland, Anh Quốc. Trong buổi học đầu tiên về Phát triển bền vững, thầy giáo tôi, một kiến trúc sư người Úc, đã bày tỏ sự ngạc nhiên pha lẫn đôi chút thất vọng khi nhận định rằng có rất ít cuốn sách về kiến trúc bền vững ngày nay đề cập đến Hassan Fathy- một kiến trúc sư lớn của Ai Cập trong thế kỉ 20. Theo ông, Hassan Fathy là một trong những kiến trúc sư chân chính và tiêu biểu nhất cho khái niệm kiến trúc bền vững từ những năm 50 của thế kỉ 20. Ngày nay, vào thế kỉ 21, khi nói về kiến trúc bền vững, người ta thường nói về các hệ thống đo lường tiêu chuẩn quốc tế với những công nghệ kĩ thuật tiên tiến mà quên rằng bản chất của sự bền vững chính là sự tự nhiên. Hassan Fathy là người đi tiên phong trong việc chọn lọc, nghiên cứu và làm sống dậy những vật liệu tự nhiên và phương pháp xây dựng lâu đời trong kiến trúc dân dụng truyền thống của Ai Cập.

Hassan_Fathy,_Lawrence_Durrell_and_Dimitri_Papadimos,_in_Cairo

Hình 1. KTS Hassan Fathy (1900-1989)- bên phải (nguồn: Wikipedia)

Năm 1946, Hassan Fathy được giao thiết kế một khu làng mới cho khoảng 7000 nông dân của Gourna, một làng nghèo nổi tiếng về nghề đào mộ bất hợp pháp. Mục đích của dự án tái định cư này là chấm dứt nạn đào mộ và trộm cắp bất hợp pháp đồng thời cung cấp cho người dân một nơi sống mới, một khởi đầu mới. Hassan Fathy thực sự tin rằng đây chính là cơ hội hiếm có để ông có thể ứng dụng các nghiên cứu của mình vào thực tế cuộc sống, tạo ra một ngôi làng kiểu mẫu để đem lại những thay đổi cơ bản trong cuộc sống sinh hoạt của người nghèo ở những vùng ngoại ô, nông thôn Ai Cập. Toàn bộ quá trình phát triển dự án tái định cư New Gourna được ông ghi lại một cách chi tiết trong cuốn sách Kiến trúc cho người nghèo (Architecture for the Poor, 1969). Tuy nhiên, trên thực tế, dự án New Gourna đã bị bỏ dở sau 2 năm tiến hành vì những bất cập trong chính sách quản lí và kinh phí từ chính phủ. Mãi đến năm 2011, những giá trị thực tiễn của dự án mới được chính thức công nhận thông qua một báo cáo, khảo sát thực địa của tổ chức World Monument Fund về tình trạng kiến trúc ngôi làng và sự tương tác giữa kiến trúc của Hassan Fathy với cuộc sống của người dân Gourna (Fund 2011).


Một số hình ảnh về dự án New Gourna trong cuốn sách:

01
02

Hình 2-3. Nhà ở của nông dân: mặt đứng và mặt bằng mái (Fathy 1973)

03

Hình 4. Mặt bằng của một trường tiểu học dành cho nam (Fathy 1973)

04

Hình 5. Sân trong của một trường tiểu học dành cho nam (Fathy 1973)

05

Hình 6. Mái vòm một khu chợ (Fathy 1973)


Câu chuyện về New Gourna chính là một bài học thực tế đáng suy ngẫm về cách tư duy và tiếp cận toàn diện trong các dự án kiến trúc xã hội với kinh phí hạn chế. Một dự án kiến trúc xã hội không thể chỉ giải quyết các vấn đề về kiến trúc mà còn phải giải đáp các bài toán về xã hội-kinh tế và định hướng phát triển của một cộng đồng gắn liền với hình thái kiến trúc đó. Bản dịch này bao gồm 3 chương trong cuốn sách Kiến trúc cho người nghèo (Architecture for the Poor) về những quan điểm và suy ngẫm của Hassan Fathy trước sự xói mòn của bản sắc dân tộc và trách nhiệm của kiến trúc sư trong kiến trúc hiện đại Ai Cập.

Đặc tính kiến trúc (Architectural Character)

Mỗi một người khi thiết kế kiến trúc thường để lại dấu ấn cá nhân như cách họ thể hiện bản thân thông qua ngôn ngữ, trang phục và những sinh hoạt truyền thống trong cộng đồng. Trước khi những ranh giới văn hóa (cultural frontiers), bị xóa nhòa vào thế kỷ trước, những hình khối và chi tiết kiến trúc đã từng mang đậm dấu ấn địa phương của các vùng miền trên khắp thế giới, và kiến trúc bản địa là đứa con tinh thần đẹp đẽ của một cuộc hôn nhân hạnh phúc giữa trí tưởng tượng của con người và nhu cầu sống thực tế ở những vùng nông thôn đó. Tôi không muốn cũng như không có thẩm quyền trong việc phỏng đoán những xu hướng thật sự cho phong cách của một quốc gia. Tôi chỉ muốn giả định một cách đơn giản rằng có một vài hình dạng kiến trúc nhất định khiến người ta đặc biệt hứng thú và họ tận dụng nó trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, đồng thời loại bỏ những chi tiết không phù hợp và thay vào đó bằng những hình khối, đường nét đa dạng phong phú, phản ánh một cách chân thật bản chất kiến trúc và thích ứng một cách hoàn hảo với môi trường địa phương nơi đó. Không ai có thể nhầm lẫn đường cong của một mái vòm Ba Tư với đường cong của một mái vòm kiểu Syrian hoặc Ma-rốc hay Ai Cập. Không ai có thể gặp khó khăn trong việc nhận ra sự tương đồng giữa những đường cong với những dấu hiệu đặc trưng của những mái vòm, những chiếc lọ và vành khăn quấn đầu turban. Tương tự, không ai có thể cảm thấy dễ chịu khi quan sát những công trình kiến trúc này bị cấy ghép vào một môi trường hoàn toàn xa lạ.

Kiến trúc Ai Cập hiện đại vẫn chưa có phong cách bản địa. Sự thiếu vắng những dấu hiệu đặc trưng: những ngôi nhà của người giàu và người nghèo đều có hình thức tương đồng, mất đi dấu ấn riêng và không mang bản sắc của Ai Cập. Truyền thống đang bị mất đi và chúng ta dường như không còn liên hệ với khỏi quá khứ từ lúc mà Mohamed Ali cắt đứt cổ họng của người Mameluke cuối cùng. Thực tế cho thấy, có một sự đố kị giữa những người tin rằng dân tộc Copts là hậu duệ trực tiếp của người Ai Cập cổ đại, với những người tin rằng phong cách Ả Rập sẽ là nguồn cảm hứng cho kiến trúc đương đại Ai Cập. Đã có một nỗ lực mang tính chính trị trong việc hòa giải hai quan điểm này: khi Osman Moharam Pasha, Bộ trưởng Công trình công cộng đề nghị chia Ai Cập làm đôi trong đó Thượng Ai Cập sẽ được giao cho người Copts để phát triển theo phong cách thời Pharaoh trong khi Hạ Ai Cập nên giao cho người Hồi giáo để họ phát triển kiến trúc của họ theo đúng tinh thần Ả Rập!

Câu chuyện này thể hiện hai điều. Điều thứ nhất là có một sự thật đáng khích lệ rằng mọi người thật sự ý thức và mong muốn giải quyết sự mơ hồ về mặt văn hóa này trong kiến trúc của chúng ta. Điều thứ hai mang tính hạn chế hơn là dường như sự bối rối này chỉ được nhìn nhận như một vấn đề về mặt phong cách, và phong cách ở đây được xem như một lớp vỏ hoàn thiện có thể gắn vào bất cứ công trình kiến trúc nào hay thậm chí gỡ bỏ và thay thế nếu cần thiết. Những kiến trúc sư hiện đại của Ai Cập tin rằng những đền thờ với những tháp môn- pylon và gờ chỉ trang trí hình lòng máng (cavetto cornice) là đặc trưng của kiến trúc Ai Cập cổ đại còn kiến trúc Ả Rập truyền thống được đại diện bởi hình ảnh những quần thể cột thạch nhũ. Thế nhưng sự thật là kiến trúc Ai Cập dân dụng cổ đại khác nhiều với kiến trúc đền thờ, cũng như ở Ả Rập, kiến trúc dân dụng cổ đại thì không giống với kiến trúc đền thờ hồi giáo. Những công trình dân dụng Ai Cập cổ đại như nhà ở là những kết cấu nhẹ, đơn giản với những đường nét gọn gàng như những ngôi nhà được thiết kế theo phong cách hiện đại. Thế nhưng trong trường học, việc nghiên cứu về lịch sử kiến trúc không chú trọng vào những công trình dân dụng, sinh viên được nghiên cứu những thời kỳ phát triển của kiến trúc thông qua những phong cách, những đặc trưng nổi bật như tháp môn-pylon và chi tiết quần thể cột. Do đó, các kiến trúc sư mới ra trường thường cho rằng tất cả mọi thứ tồn tại đều thuộc về phong cách và tưởng tượng rằng họ có thể thay đổi phong cách của một công trình như thay một chiếc áo. Chính những suy nghĩ này đã dẫn đến việc một vài kiến trúc sư đã mạnh tay phá bỏ lối vào lớp học ở một trường học ở Gourna bằng cách chuyển đổi hành lang mái vòm hiện hữu thành một ô cửa theo phong cách đền thờ Ai Cập cổ đại và được trang trí bởi những gờ chỉ trang trí hình lòng máng. Dường như người ta vẫn chưa hiểu rằng kiến trúc không thể tồn tại mà tách rời khỏi truyền thống sinh hoạt và lối kiến trúc truyền thống đó đã hoàn toàn chết ở Ai Cập ngày nay.

Như một hệ quả trực tiếp từ việc thiếu vắng truyền thống, những thành phố và làng mạc của chúng ta đang dần trở nên xấu xí hơn. Mỗi một công trình mới được xây dựng chỉ khiến sự xấu xí này ngày một trầm trọng hơn và mọi nỗ lực cố gắng khắc phục đều chỉ càng nhấn mạnh sự thô kệch này rõ ràng hơn.

Đặc biệt ở những khu vực ngoại ô của những tỉnh lẻ, nơi những công trình mới đang dần lan rộng, thiết kế thô kệch của những ngôi nhà được lộ rõ thông qua sự thi công cẩu thả, những khối hình hộp chật chội với nhiều kích thước khác nhau theo cùng một phong cách được sao chép theo một cách cẩu thả từ những khu đô thị, dù chưa hoàn thiện nhưng đã bắt đầu xuống cấp. Trong những khu dân cư tồi tệ này, nhu cầu được thể hiện bản thân và hiện đại hóa bản thân khiến người chủ nhà sẵn sàng chi tiền cho những thiết kế lòe loẹt kiểu đô thị trong khi vẫn đang chật vật với không gian sống xung quanh và phủ nhận lợi ích thực tế của sự thủ công truyền thống. Chính thái độ này đã khiến những ngôi nhà ngày càng trở nên chật chội và phơi mặt ra đường chính với ban công khô khốc của nhà hàng xóm, trong khi lẽ ra nếu người chủ nhà thông minh hơn, họ hoàn toàn có thể tận dụng một kiểu nhà (có lẽ là duy nhất) phù hợp với khu vực này: nhà có sân sau nơi mà họ có được khoảng không và sự riêng tư. Đáng buồn thay, hình thái kiến trúc nông thôn này đối với những người nông dân lại chính là một hình mẫu cho sự hiện đại và nó ngày càng được lan rộng trong các làng mạc. Ở vùng ngoại ô Cairo hay Benha, chúng ta có thể nhìn thấy số phận trong tương lai của Gharb Aswan.

Để nịnh bợ khách hàng và thuyết phục họ rằng đó là sự tinh tế và hiện đại, người thợ hồ trong làng đã bắt đầu thí nghiệm cái phong cách mà anh ta chỉ được quan sát một cách gián tiếp và với những vật liệu mà anh không có đủ kiến thức để xử lý. Người thợ hồ thường bỏ qua các hướng dẫn an toàn truyền thống và sáng tạo nên một kiểu “kiến trúc của kiến trúc sư” (architects’architecture) mà không hề có kiến thức cũng như kinh nghiệm của một kiến trúc sư. Kết quả là một ngôi nhà với toàn những sai sót và không hề có một ưu điểm nào của một tác phẩm kiến trúc thực thụ.

Kết quả là những ngôi nhà trong những khu dân cư nghèo được thiết kế bằng việc sao chép, cóp nhặt chi tiết từ những công trình thời thượng của kiến trúc châu Âu với kinh phí eo hẹp sẽ lan tỏa khắp các vùng nông thôn nghèo và làng quê và đầu độc dần truyền thống thực thụ nơi này chỉ sau một vài năm.

Vì thế một sự nghiên cứu thấu đáo và khoa học là thực sự cấp bách đối với tình trạng nghiêm trọng này nếu chúng ta muốn chống lại xu hướng kiến trúc dân dụng thô kệch và kém hiệu quả ở những vùng nông thôn.

Đôi khi tôi cảm thấy tuyệt vọng vì quy mô của vấn đề và cho rằng điều đó không thể giải quyết được như thể một sự bất lực trước số phận. Tôi đã từng chấp nhận cảm giác vô vọng, buồn chán và đau đáu trước những thứ đang dần trở thành một phần của chúng tôi và của đất nước tôi. Thế nhưng khi tôi có cơ hội thử thách bản thân mình với một dự án thực tế ở Gourna, tôi đã vực dậy và bắt đầu tư duy một cách thiết thực hơn về vấn đề này.

(Còn tiếp)

Kiến trúc cho người nghèo (phần 2)

Kiến trúc cho người nghèo (phần 3)

Người dịch: Lipv

Nguồn tham khảo:

Fund, W.M (2011) New Gourna Village: Conservation and Community

Fathy, H. (1973) Architecture for the Poor: An experiment in rural Egypt, Chicago London: The University of Chicago