Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất (Chương 3)

Lời giới thiệu: Giới thiêu sơ lược về bối cảnh, tác giả và nội dung sách

Chương 1: Sự tìm kiếm những không gian cư ngụ (The Search for Shelter)

Chương 2: Tồn tại (Being)

Nguồn: https://www.amazon.com/Rethinking-Design-Interiors-Beings-Environment-ebook/dp/B00I0BFK6U

Chương 3: Bên trong (Inside)

“Kiến thức về nội tâm con người thì tương ứng với kiến thức về nội thất của một không gian” (Caan, 2011 p.1233)

Shashi Caan cho rằng thiết kế nội thất ngày nay phần lớn chỉ tập trung vào những can thiệp vật lý (physical intervention) hơn là chú trọng đến những gắn kết mang tính trải nghiệm (experiential engagement) của người sử dụng. Nguyên nhân chính là vì lĩnh vực thiết kế nội thất cho đến bây giờ vẫn chưa phải là một thể thống nhất hoàn chỉnh (unified entity). Cụ thể hơn, khi xét về chiều sâu, vẫn còn có một hố đen lớn (a vacuum) giữa những nhận thức thông thường về công việc thiết kế nội thất và cơ sở lí luận cần thiết cho một chuyên ngành thiết kế nội thất. Để giải quyết vấn đề trên, thiết kế nội thất cần một nền tảng triết lí vững chắc dựa trên 3 nguyên tắc sau:

  1. Con người phải là (must) trung tâm của thiết kế. Để làm được điều này, việc thiết kế phải đòi hỏi một hệ thống kiến thức nền tảng về cơ thể, trí óc và tinh thần của con người.
  2. Yêu cầu về vai trò của thiết kế nội thất nên được xem xét mở rộng. Thiết kế nội thất làm việc trực tiếp với một tổng hòa của những nhu cầu cá nhân, riêng tư của con người trong khi những ngành thiết kế khác chỉ tập trung giải quyết từng vấn đề riêng biệt. Do đó, vị trí và mối tương quan của thiết kế nội thất trong môi trường xây dựng cần được vạch rõ và gắn kết nhiều hơn với những chuyên ngành có liên quan.
  3. Thiết kế nội thất chính là việc tạo hình những khoảng trống không gian (the void- the air and space) ở giữa những vật thể (vật lý và phi vật lý) bao quanh trong môi trường xây dựng, đem lại cho chúng một giá trị, ý nghĩa, và một sự gắn kết với người sử dụng và môi trường bao quanh.

Chấp nhận 3 nguyên tắc trên chính là bước đầu tiên để xây dựng nên một nền tảng lí luận cho chuyên ngành thiết kế nội thất. Thực tế cho thấy, nguyên nhân của sự mơ hồ trong nhận thức xã hội và cả của những người hành nghề đến từ những thông tin sai lệch, tập trung chủ yếu vào các mối bận tâm về thị giác và khiến ý nghĩa thật sự của việc “thiết kế” trở nên hời hợt hơn rất nhiều:

“Thiết kế nội thất, giống như một sự giải trí (a pastime), chưa bao giờ thật sự nắm bắt được nhiều hơn những nhu cầu chung- thực tế, chúng chỉ tập trung vào sự gia tăng về những phong cách sống và những thứ liên quan đến nội thất đến từ phương tiện truyền thông, cải tạo nhà cửa và các cửa hàng buôn bán đồ nội thất. Sự trân trọng về giá trị của việc thiết kế đã giúp thúc đẩy sự tiến bộ của thiết kế nội thất, nhưng đồng thời, cũng dẫn tới sự nghiệp dư (dilettantism) trong lĩnh vực này. Những chương trình thực tế và các tạp chí gia đình mạnh mẽ tuyên bố rằng ai cũng có thể thiết kế, từ đó dẫn đến việc phủ nhận những kĩ năng và năng lực chuyên biệt của những nhà thiết kế. Hậu quả là, chúng ta có một ấn tượng rộng rãi rằng vai trò của một nhà thiết kế chính là một stylist về bề mặt (surface stylist) và kiểu dáng (form giver). Ngoài ra, còn có một nhận thức sai lệch về bí ẩn của một vài “nghệ sĩ” tài năng- người tạo ra những xu hướng mới bằng việc kết hợp những hình dạng và vật liệu kì lạ với một sự tinh tế nhất định” (Caan, 2011 p.1256)

Thiết kế nội thất được chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn khởi điểm xuất phát trong những hang đá (chương 1) và giai đoạn phát triển giúp định hình đặc tính hiện đại diễn ra trong 2 thế kỉ vừa qua. Tuy nhiên giai đoạn sau không diễn ra độc lập mà là sự giao thoa với những lĩnh vực thiết kế khác như công nghiệp và đồ họa. Đồng thời cũng trong giai đoạn này, kiến trúc đã gần như tách ra độc lập khỏi lĩnh vực xây dựng và kĩ thuật kết cấu, định hình một bản sắc và dấu ấn riêng. Trong khi đó, nội thất dù đã có mặt trong đời sống con người ngay từ những giai đoạn tiến hóa đầu tiên lại không cho thấy một sự phát triển rõ ràng trong lĩnh vực thiết kế sản phẩm (product design):

“bản chất thật sự của nó (nội thất)- như một backdrop (phông nền) cho tất cả mọi hoạt động của con người, cùng với sự thiếu hụt về các lý thuyết định hình cho việc thực hành, khiến việc xác định chính xác nguồn gốc của nó trở nên khó khăn.” (Caan, 2011 p.1281)

Sự đóng góp của các ngành nghề thi công trang thiết bị nội thất thủ công giúp đóng góp, một cách cá nhân, vào việc cấu thành nên một không gian nội thất, nhưng xét trên tính toàn thể, những ngành nghề này không thể đem đến một trải nghiệm toàn diện mà lĩnh vực thiết kế nội thất cần có. Dựa vào nguồn gốc hình thành mà Shashi Caan cho rằng những khái niệm sai lệch (misconception) về thiết kế nội thất đến từ việc nhầm lẫn giữa những miêu tả (description) về trang trí nội thất (mang tính thời trang, tạm thời và giao thoa, và làm việc chủ yếu với đồ dùng nội thất, màn, vải, đồ trang trí…) và yêu cầu (requirement) của thiết kế nội thất:

 Do đó, bản chất phức tạp của chuyên ngành thiết kế nội thất phải được làm rõ mà trong đó, công việc trang trí đóng một vai trò nhỏ hơn dù thiết yếu trong tổng thể sâu rộng của cái vũ trụ này. Việc phân định đó nên bắt đầu từ sự rạch ròi trong cách sử dụng các khái niệm “nhà trang trí nội thất”, “nhà thiết kế nội thất” và cả “kiến trúc sư”. Hiện nay, hai khái niệm đầu tiên vẫn hay được dùng thay thế qua lại ngay cả trong giới chuyên môn.

  • Trang trí nội thất: thường được sử dụng để nói về giai đoạn cuối cùng của quá trình xây dựng và hoàn thiện nội thất. Vào khoảng cuối thế kỉ 19, khái niệm trang trí thường được sử dụng cho các upholster, những người không qua trường lớp đào tạo. Cùng thời gian đó (khoảng từ năm 1880- 1930) là sự ra đời của các tổ chức giáo dục và chuyên nghiệp về kiến trúc.
  •  Thiết kế nội thất: bắt đầu được phổ biến vào cùng thời điểm, khoảng những năm 1930. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi nhằm phân biệt một không gian nội thất hoàn chỉnh với một sự trang trí thuần túy. Tuy nhiên tại thời điểm đó, cả thiết kế nội thất và trang trí nội thất vẫn thường được dùng thay thế lẫn nhau và không ám chỉ rằng đây là một chuyên ngành khác biệt với kiến trúc. Thế nhưng sau đó, khái niệm thiết kế nội thất bắt đầu được sử dụng để chỉ những phần việc kiến trúc thuộc phần bên trong của một công trình, tương phản với phần ngoại thất. Chính điều này có thể hàm ý rằng thiết kế nội thất là một phần của kiến trúc, tách biệt với trang trí. Ngoài ra, có một thực tế đáng ngạc nhiên rằng các không gian nội thất là chủ đề chính trong các tác phẩm lý luận kiến trúc vào thế kỉ 18 ở Pháp và sự chú trọng vào những không gian bên trong ngày càng trở nên rõ nét hơn trong các khái niệm về không gian kiến trúc ở thế kỉ 20.
Hình 1. Mặt cắt và mặt bằng tầng 2 của Hoopital des Enfants được xây dựng năm 1727 bởi kiến trúc sư Germain Boffrand. Phần nội thất, như một đối tượng của sự trang trí hay các bố trí không gian bên trong đều là mối bận tâm lớn của các KTS Pháp ở thế kỉ 18. Ở đây, Boffrand thể hiện một mặt bằng giản lược và mặt cắt loại bỏ các phần trang trí, thay vào đó tập trung vào phần bố trí phân khu- sự tiện lợi. Đây cũng chính là một trong những đặc trưng chính thống của chuyên ngành nội thất tại Mỹ (Caan, 2011 p.1410)

Tuy nhiên, vẫn cần có một sự phân biệt rõ về ranh giới giữa kiến trúc và thiết kế nội thất. Trong đó, người kiến trúc sư thiết kế những kết cấu chắc chắn để tạo nên những không gian an toàn và lành mạnh trong khi nhà thiết kế nội thất chịu trách nhiệm về sức khỏe tinh thần và cảm xúc của những con người cư ngụ bên trong không gian đó:

“sự chấp nhận toàn diện khái niệm kiến trúc nội thất, thay thế cho thiết kế nội thất đe dọa cướp đi đặc trưng của lĩnh vực thiết kế nội thất, tách rời nó khỏi nguồn gốc nguyên thủy và sự kết nối cốt lõi (của thiết kế nội thất) với hành vi nhận thức (cognitive behavior) và khoa học xã hội (social science). Nhà thiết kế nội thất ngày nay cần phải là một chuyên gia toàn diện, người có thể hiện thực hóa những môi trường có lợi cho sự cư ngụ của con người. Một người thiết kế như vậy cần có chuyên môn rộng hơn những kĩ năng thông thường của một kiến trúc sư hay một người trang trí” (Caan, 2011 p.1441)

Sự tương đồng tâm lý

Ý nghĩa của không gian nội thất trong môi trường xây dựng cũng tương tự như giá trị của ngành tâm lý học trong nhóm ngành khoa học xã hội. Sự tương đồng này được xây dựng dựa trên 3 mức độ:

  1. Như một chuyên ngành: nếu tâm lý học giải quyết các vấn đề sức khỏe tinh thần và hành vi, vượt ra khỏi giới hạn của sinh học hay y học dựa trên tác động của chúng lên cơ thể thì thiết kế nội thất đáp ứng chất lượng về các trải nghiệm của con người trong môi trường xây dựng mà không có lĩnh vực thiết kế nào có thể giải quyết. 
  2. Như một môn khoa học: nếu tâm lý học là một môn khoa học của tâm trí thì thiết kế nội thất là một môn khoa học của những trải nghiệm con người trong môi trường xây dựng. 
  3. Như một sự hiểu biết về con người: cả tâm lý học và thiết kế nội thất đều cung cấp các phương pháp để tìm hiểu sâu hơn về con người, vượt ra khỏi những giới hạn hữu hạn của những ngành đi trước. Nếu như tâm lý học có thể cung cấp nhận thức về hành vi của con người thì khoa học về những không gian nội thất tác động đến nhận thức của chúng ta về sự tương tác của con người trong môi trường xây dựng. 

“Tâm lý học thực nghiệm giúp giải mã những thứ đã và đang tồn tại bên trong con người mà không ai có thể thăm dò được. Tương tự, chuyên ngành thiết kế nội thất phải chủ động khám phá những hiểu biết sâu hơn về những giá trị chất lượng phi vật thể của không gian nội thất và tác động của môi trường xây dựng có thể gây ra đối với con người. Thế nhưng, nếu như người thiết kế cho rằng họ không có- và không thể- tạo ra những phương thức giúp đo lường những trải nghiệm của con người thì điều này sẽ không xảy ra” (Caan, 2011 p.1521)

Kiến thức thực tiễn

Shashi Caan cho rằng thiết kế cần phải được phát triển trên nền tảng của những kiến thức khoa học trước khi đạt được những sáng tạo thiết kế. Đây cũng chính là câu hỏi đặt ra cho ngành thiết kế nội thất: nếu thiết kế là sự kết hợp giữa sáng tạo và khoa học thì thiết kế nội thất nên là kiểu khoa học nào?

“Đây là cách thức mà tâm lý hoạt động như một ngành khoa học và đó cũng chính là phương thức nghiên cứu có thể cung cấp dữ liệu cho thiết kế nội thất, một chuyên ngành vẫn đang phụ thuộc quá nhiều vào trực giác, ngay cả trong những hướng dẫn chuyên môn được thông qua. Những nghiên cứu dựa trên khoa học về hành vi của con người trong môi trường xây dựng nên bắt đầu tạo ra những kiến thức chung mà dựa vào đó, mỗi một người thiết kế có thể đưa ra những quyết định sáng suốt” (Caan, 2011 p.1609)

Từ đó mà định nghĩa về “không gian nội thất” cũng cần được xem xét lại: định nghĩa về không gian nội thất không nên bị giới hạn trong những bức tường kín (indoor space) mà nên bao gồm tất cả những không gian 3D, đóng một phần hoặc toàn bộ (full or partial enclosure), đó có thể là một không gian sắp đặt ngắn hạn , một “urban room” với bầu trời chính là trần che. Nói cách khác, tư duy về thiết kế không gian chính là tư duy về trải nghiệm của sự cư ngụ (experience of occupation).

Hình 2. Công viên Paley (New York) được thiết kế bởi kiến trúc sư cảnh quan Zion và Breen cùng với Albert Perston Moore vào năm 1966. Một “urban room” không mái che. (Caan, 2011 p.1505)

Một quy trình thiết kế bao gồm 9 giai đoạn riêng biệt sau: 

  1. Nghiên cứu để giải quyết những vấn đề cụ thể 
  2. Phân tích và suy luận về các nhu cầu 
  3. Phát triển một dự án dựa trên một chương trình cụ thể về khối lượng cũng như chất lượng 
  4. Lên ý tưởng và bố cục 
  5. Phát triển thiết kế 
  6. Bản vẽ kỹ thuật 
  7. Giám sát thi công, kĩ thuật 
  8. Bàn giao công trình- sự cư ngụ 
  9. Quan sát và nghiên cứu hậu cư ngụ  

(Hết)

Dịch và tổng hợp: Lipv

Nguồn tham khảo:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t02-4-shashi-caan-tu-duy-lai-ve-thiet-ke-va-noi-that/3/

Caan, S. (2011) Rethinking Design and Interiors- Human beings in the built environment. London: Laurence King Publishing Ltd

Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất (Chương 2)

Lời giới thiệu: Giới thiêu sơ lược về bối cảnh, tác giả và nội dung sách

Chương 1: Sự tìm kiếm những không gian cư ngụ (The Search for Shelter)

Chương 3: Bên trong (Inside)

Nguồn: https://www.amazon.com/Rethinking-Design-Interiors-Beings-Environment-ebook/dp/B00I0BFK6U

Chương 2: Tồn Tại (Being)

Shashi Caan cho rằng thiết kế không gian nội thất chính là lĩnh vực thiết kế có mối liên hệ trực tiếp và gần gũi nhất đến bản chất của con người so với tất cả những lĩnh vực khác. Trong bối cảnh thế kỉ 21, khi thiết kế có xu hướng ngày càng bành trướng về kích thước, hướng đến những siêu cấu trúc (megastructure) như một giải pháp cho những vấn đề xã hội và phát triển bền vững thì nhà thiết kế nội thất nên là người tiên phong trong việc khám phá những tiêu chuẩn mới cho thiết kế nói chung, xuất phát từ nội tại thay vì ngoại cảnh như hiện nay (working from inside out). Đăc biệt, những tiêu chuẩn mới này phải lấy nhu cầu tinh thần của con người làm trọng tâm:

“Những ngôn ngữ giao tiếp và thị giác hiện nay của chúng ta đã bộc lộ sự giới hạn về khả năng đáp ứng những yêu cầu về chất lượng của không gian nội thất. Thuật ngữ “thiết kế” thì đặc biệt mang tính ứng dụng (nó bao gồm hàm ý về công năng, giao thông và hệ thống hóa những quy định về an toàn vật lý) nhưng chính những khái niệm này lại không thể miêu tả sự tương tác có chủ đích về mặt cảm xúc (intentional emotive interplay) giữa con người, vật thể và môi trường. Sự tác động qua lại này là cần thiết để kích thích những ý thức và hành động cao cả, và đồng thời kiến tạo nên những môi trường mà, ví dụ như, có thể đem đến cảm giác về sự thanh cao, củng cố sự tin tưởng mạnh mẽ hơn như một sản phẩm của quá trính thiết kế.
Phần lớn các lý thuyết kiến trúc đang cố gắng cắt giảm những ý tưởng triết học (philosophical concept) của không gian, sự hài hòa và cân bằng thành những tiêu chuẩn nghệ thuật mang tính hình thức. Đồng thời chúng cũng phác họa hình ảnh con người điển hình trong những công trình như một sự trừu tượng hóa vô hồn (lifeless abstraction), đóng một vai trò gần như thứ yếu trong quá trình thiết kế. Nếu như chúng ta muốn đạt được một phương pháp thiết kế tốt hơn, thì chúng ta phải nhanh chóng tạo ra một phương pháp chính xác hơn trong việc xác định rõ sức mạnh về mặt cảm xúc của việc thiết kế.
Trong một khoảng thời gian rất dài, những nhà thiết kế, trong tất cả mọi lĩnh vực, đã tránh né việc đào sâu một cách nghiêm túc vào những góc độ hiện tượng học (phenomenological aspect) của thiết kế. Chúng ta đang đơn giản hóa sự tồn tại của chúng ta và nghĩ về loài người như những khái niệm toàn thể (universal terms), với một mẫu số chung (common denominator) cho nhu cầu của tất cả mọi người.” 
(Caan, 2001 p.554)

Con người chính là sự kết nối giữa thế giới vật chất hữu hình bên ngoài và thế giới nhận thức bên trong chính chúng ta thông qua sự hoạt động của não bộ và các giác quan. Nói cách khác, “thiết kế chính là sự chiêm nghiệm giữa một trải nghiệm “nội thất” (bên trong không gian và cả bên trong chính chúng ta) với thế giới bên ngoài”. (Caan, 2001 p.583) Do đó, các không gian nội thất không chỉ đơn thuần là nơi diễn ra các tương tác vật lý mà còn đem đến những tác đông đáng kể về mặt tâm lý và cảm xúc. Thông qua những giá trị phi vật chất đó, không gian nội thất được định nghĩa như một lớp da thứ hai của con người– a second skin, lớp da giúp định hình chính con người chúng ta và cách chúng ta tiếp nhận thế giới xung quanh:

“mặc dù nó nằm bên ngoài những giới hạn vật lý của cơ thể chúng ta, làn da thứ hai này lại đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc xác định chúng ta là ai và cách chúng ta nhận thức. Do đó, đặc tính của con người được mở rộng ra khỏi phạm vi vật lý của chúng ta. Thiết kế là một không gian chuyển tiếp nằm giữa làn da và những thứ bên ngoài. Chính vì thế mà nó (không gian nội thất) là một phần nối dài của chính bản thân chúng ta.” (Caan, 2001 p.608)

Hình 1. Mặt cắt giải phẫu của cơ thể con người (bên trái) và mặt cắt của một tòa nhà (bên phải) thể hiện những thành phần bên trong một cấu trúc được ngăn cách với thế giới bên ngoài đều thể hiện chung một khái niệm- nội thất (interior) (Caan, 2001 p.602-603)

Không gian chính là sự phản chiếu của ý thức con người lên thế giới vật chất trên góc độ triết học. H.Van der Laan, tác giả của cuốn sách Không gian kiến trúc: 50 bài học về sự sắp đặt của thói quen của con người, đã khắc họa khái niệm về không gian như một sự đối lập của những khoảng rỗng ẩn dụ (metaphorical void- những không gian được tạo thành từ không gian tự nhiên khi con người xây dựng) và khoảng đặc ẩn dụ (metaphorical solid- cách thức mà chúng ta trải nghiệm những không gian xây dựng). Ông cho rằng việc xây dựng những bức tường khép kín đã xâm phạm vào tính toàn thể (completeness) của không gian tự nhiên. Không gian xây dựng đó được xem như một khối đặc (fullness) bao bọc bởi một sự trống rỗng (emptiness), hay nói cách khác, hành động kiến tạo không gian chính là hình ảnh của những khối đặc bao quanh một sự trống rỗng và sự trải nghiệm không gian chính là cảm giác đứng giữa sự trống rỗng đó. Thông qua dẫn chứng này, Shashi Caan chỉ ra rằng ngay cả với những lý luận không gian lấy xuất phát điểm từ bên trong nhận thức con người rồi phóng chiếu ra thế giới bên ngoài, thì vai trò của con người vẫn bị xem như một thực thể trừu tượng không hề có sự kết nối vật lý đến thế giới bên ngoài. Không gian luôn là một khái niệm trừu tượng, không mang tính cư ngụ (habitable) và thiếu vắng sự kết nối với con người với các hoạt động của họ.

Từ đó, Shashi Caan đã xem xét lại định nghĩa và giới hạn của các không gian giao tiếp (proxemics) mà Edward T.Hall, cha đẻ của các nghiên cứu nhân chủng học trong không gian con người, tác giả của cuốn sách kiến trúc kinh điển Khoảng cách vô hình (The Hidden Dimension) đã đề xuất. Theo Edward, không gian giao tiếp có thể chia thành 4 phạm vi dựa trên khoảng cách:

  1. Không gian thân mật (Intimate space): từ những tiếp xúc trực tiếp cho đến những tiếp xúc cách xa 45cm
  2. Không gian cá nhân (Personal space): một khu vực trong khoảng từ 45cm đến 1.2m
  3. Khoảng cách xã hội (Social distance): một khu vực trong khoảng từ 1.2m đến 3.6m
  4. Không gian công cộng (Public space): một khu vực trong khoảng từ 3.6m đến 7.6m
Hình 2: Biểu đồ về không gian giao tiếp- proxemic của Edward T.Hall. Trong bảng so sánh này, những khu vực tương tác được định hình và phân tích dựa trên các giác quan. Hall đã quan sát thấy rằng trải nghiệm không gian không chỉ còn là vấn đề về thị giác mà còn liên quan đến rất nhiều những mức độ của các giác quan khác nhau. (Caan, 2001 p.716)

Thế nhưng, với quan điểm lấy con người làm trọng tâm trong không gian (a human-oriented vision of space), Shashi Caan cho rằng sự trải nghiệm không gian nội thất không nên dựa trên những vách ngăn vật lý (ví dụ như hành động bước vào từ bên ngoài) mà xuất phát từ chính bên trong con người và bao gồm những thứ xung quanh có mối liên hệ với cơ thể con người:

“Cuối cùng thì, không gian cá nhân không phải là câu hỏi về cách chúng ta nhận thức các điều kiện xung quanh mà hơn cả chính là cách mà chúng ta biểu hiện bản thân thông qua một bối cảnh không gian.” (Caan, 2001 p.716)

Nếu một không gian kiến trúc là thứ cố định, không thể di chuyển thì trang thiết bị nội thất (furniture) được xem như một sự nối dài của chính cơ thể con người (extension of self). Do đó, chúng nên được thiết kế để có thể thích nghi và linh hoạt với các nhu cầu của con người. Trong thiết kế nội thất luôn tồn tại hai vấn đề: công năng và phong cách, đặc biệt là với trang thiết bị nội thất. Chúng ta nên nhớ rằng, trải nghiệm không gian nội thất luôn đòi hỏi sự tham gia của nhiều hơn một giác quan (thị giác). Mùi hương, âm thanh, nhiệt độ, xúc giác đều có tác động đến sự nhận thức về không gian của con người.

Thế nhưng ngày nay, có rất nhiều xu hướng thiết kế (design trend) được định nghĩa chỉ bằng một bức ảnh sắp đặt như một kiểu hoán dụ (metonym) cho toàn bộ xu hướng. Và chúng ta đang định nghĩa sức nặng và giá trị của những không gian thiết kế thông qua những hình ảnh vô hồn trên tạp chí hay truyền hình. Xu hướng này là cưc kỳ đáng báo động vì chúng đang gạt bỏ vai trò của con người trong thiết kế để tạo ra những lớp vỏ thời thượng nhưng vô cảm.

Hình 3: Sơ đồ về mối liên hệ giữa 5 giác quan đến nhận thức và sự phản chiếu của nhận thức đó lên thế giới xung quanh. (Caan, 2001 p.797)

Con người là thước đo của vạn vật (Man is the measure of all things). Tuy nhiên, quan niệm truyền thống – vai trò của con người trong môi trường xây dựng thể hiện qua mối tương quan giữa tỉ lệ cơ thể con người lên các chỉ số đo lường- chỉ nói lên một phần nhỏ của vấn đề:

“Những số đo vật lý là, và sẽ luôn là, chưa hoàn chỉnh. Sự kết nối giữa con người với môi trường xây dựng- nếu xét rộng ra khỏi phạm vi thuần vật lý, thì vẫn chưa được hề khai phá. Khi được công nhận, những tiêu chí (thiết kế) thông qua quá trình trải nghiệm sẽ cấu thành nên thước đo hoàn chỉnh về đàn ông và phụ nữ” (Caan, 2001 p.929)

Sự thoải mái (comfort) là một trong số những nhu cầu của con người được chia sẻ rộng rãi ở cả góc độ cá nhân lẫn tập thể. Cũng như các yếu tố khác của thiết kế, sự thoải mái bao gồm 2 tầng lớp ý nghĩa: phần nội hàm (internal meaning) được trải nghiệm bởi cá nhân trong khi phần ngoại cảnh được thể hiện thông qua các dữ liệu, phương pháp đo lường. Do đó, một người thiết kế giỏi phải nắm bắt được phần ý nghĩa nội hàm bên trong sự thoải mái để từ đó phát triển nên lớp nghĩa bên ngoài. Sự thoải mái không phải một phát minh mới mà chỉ đơn thuần là việc gọi tên một số cảm xúc có sẵn:

“những yếu tố chất lượng của sự thoải mái thường được trích dẫn nhưng ít khi được thực hành. Chúng ta có thể biết rằng ánh sáng không chỉ là nhu cầu cần thiết mà còn là chất xúc tác của cảm xúc (emotional trigger), và một không gian yên tĩnh có thể thúc đẩy những biểu hiện tích cực ở con người, nhưng chúng ta thường xuyên bỏ qua những kiến thức này khi bắt tay vào thiết kế.” (Caan, 2001 p.1024)

Những nhu cầu cơ bản nhất của con người là những nhu cầu đặc trưng nhất cho mỗi cá thế. Sự riêng tư (privacy) là một khái niệm linh hoạt mà theo nhiều nghiên cứu cho thấy, nó bị chi phối mạnh mẽ và sâu sắc nhất không phải bởi nhu cầu con người nói chung mà bởi sự ảnh hưởng của văn hóa:

“sự riêng tư chính là sự chia cách giữa nội tại của con người với sự tồn tại của họ bên ngoài ranh giới của ý thức và cơ thể. Nhận thức của cá nhân về chính bản thân họ, sự trải nghiệm của tính riêng tư có thể xảy ra ở bất kỳ không gian thiết kế nào, không chỉ riêng nhà ở…có những ý kiến truyền thống cho rằng sự riêng tư cao nhất của không gian nội thất thì chỉ có thể xuất hiện trong những không gian cá nhân (domestic space)” (Caan, 2001 p.1146)

Bản chất của con người luôn tồn tại tính hai mặt (duality), bao gồm những cặp đối lập tương phản (ví dụ như sự riêng tư và tập thể). Trong các ngành giáo dục về nghệ thuật và thiết kế, những yếu tố tương phản này lại chỉ thường được xem xét, thảo luận dựa trên góc độ thị giác mà hiếm khi được nhìn nhận như một nhân tố quan trọng giúp duy trì sự cân bằng bền vững.

Đích đến cuối cùng trong thiết kế chính là sự hạnh phúc của con người (well-being). Để đạt được mục tiêu này, một thiết kế không thể chỉ dựa trên các yếu tố nghệ thuật thị giác mà còn phải được xây dựng dựa trên những tiêu chí phi vật thể, giúp xác định nơi chốn của mỗi cá nhân trong thế giới rộng lớn này. Tuy nhiên rõ ràng là phần lớn thiết kế ngày nay khi bị chi phối bởi những hình thức cứng nhắc hoặc các xu hướng về mặt thị giác đều không đạt được tiêu chí đó. Những thiết kế này được tạo ra để tôn vinh những vẻ đẹp vô hồn thay vì sự cư ngụ của con người bên trong đó.
Để đạt được sự hạnh phúc, một thiết kế phải đạt được hai mức độ khác nhau: đầu tiên là tạo ra một khu vực thoải mái thông qua các tiêu chí cụ thể như ánh sáng, nhiệt độ, kích thước, tỉ lệ, màu sắc và vật liệu. Thứ hai, lấp đầy vào không gian đó sự đam mê, cảm hứng, những yếu tố tinh thần cần thiết cho sự hạnh phúc của con người. Nói cách khác, một không gian thiết kế đúng nghĩa sẽ thúc đẩy sự thăng hoa của con người theo cách riêng của chính họ. Do đó, sự hạnh phúc, bên cạnh sức khỏe, an toàn, bảo vệ phải được xem xét như một tiêu chí bắt buộc trong danh sách tiêu chuẩn thiết kế chuyên nghiệp:

“Thiết kế chính là nỗ lực để kéo gần khoảng cách giữa việc chúng ta là ai với con người mà chúng ta khao khát trở thành.” Design is the attempt to bridge the gap between who we are and who we aspire to be” (Caan, 2001 p.1190)

(Còn tiếp)

Dịch và tổng hợp: Lipv

Nguồn tham khảo:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t02-3-shashi-caan-tu-duy-lai-ve-thiet-ke-va-noi-that/5/

Caan, S. (2011) Rethinking Design and Interiors- Human beings in the built environment. London: Laurence King Publishing Ltd

Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất (Chương 1)

Lời giới thiệu: Giới thiêu sơ lược về bối cảnh, tác giả và nội dung sách

Chương 2: Tồn tại (Being)

Chương 3: Bên trong (Inside)

Nguồn: https://www.amazon.com/Rethinking-Design-Interiors-Beings-Environment-ebook/dp/B00I0BFK6U

Chương 1: Sự tìm kiếm những không gian cư ngụ

Ở phần đầu, tác giả truy xuất lại nguồn gốc ra đời của không gian nội thất thông qua quá trình tiến hóa của loài người. Ý niệm về những không gian cư ngụ đầu tiên (the very first habitable environment) đến với loài người dưới hình dáng của một không gian bên trong- hang động:

“hang động cho phép con người có cảm giác được che chắn bảo vệ khỏi những đe dọa và giải phóng con người khỏi cảm giác bất an hay lo lắng. Từ cái khoảnh khắc mà con người lần đầu tiên bước vào bên trong (go inside), cái ý niệm về việc họ là ai đã trở nên khác biệt rất xa so với thứ mà họ có thể hiểu được nếu chỉ ở bên ngoài (stay outside). Câu chuyện về sự tiến hóa của không gian bên trong do đó chính là một sự phản ánh về lịch sử của chúng ta cũng như những nhu cầu thuộc về bản chất (intrinsic need) để cải thiện cách chúng ta trải nghiệm thế giới. Đó cũng là lý do mà chúng ta làm thiết kế. Việc khai quật sâu vào lịch sử môi trường sống của con người không chỉ là việc nhìn lại (look backward) mà còn chính là một phần của hướng tới tương lai (the view of forward). Việc hiểu biết về nguồn gốc nguyên sơ của môi trường xây dựng (built environment) cho phép con người hiểu rõ hơn về cách mà chúng (môi trường xây dựng) tác đông lên chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta ý thức được sự liên kết này, chúng ta mới có thể bắt đầu phát triển cái dàn ý toàn diện về kiến thức tối quan trọng cho việc thiết kế cho tương lai.’’ (Caan, 2011 p.215)

Hình 1. Sơ đồ tóm lược quá trình tiến hóa của không gian trú ngụ (shelter) từ thời tiền sử cho đến tương lai (Caan, 2011 p.235)

Từ việc phát hiện ra những hang động tự nhiên hoang sơ cho đến những hình vẽ đầu tiên được vẽ ra có chủ đích trên vách hang động tới các hoạt động thay đổi, tách rời hang động thành những hình thái nhà ở thô sơ đầu tiên chính là bằng chứng cho việc thiết lập một loạt những nhu cầu kiểm soát khác về vật chất lẫn tinh thần của con người lên môi trường sống, vượt xa ngoài những bản năng sinh tồn tư nhiên. Nói cách khác:

“chính con người chứ không phải việc phát hiện ra không gian cư ngụ đóng vai trò trung tâm trong câu chuyện về nội thất. Thiết kế là một sự can thiệp có chủ đích vào môi trường sống để cải thiện chất lượng cho sự tồn tại của con người. Đáng buồn thay, yếu tố then chốt của bản sắc con người đã không được hiểu đầy đủ. Chúng ta vẫn đang tiếp tục đánh giá sự thành công tương đối của nền văn minh loài người dựa trên những khái niệm kĩ thuật, hiểu sai bí ẩn của sự tiến hóa chủ yếu thông qua những phương pháp lý tính- kĩ thuật hơn là việc đo lường mức độ tiến bộ về sự tự nhận thức ở con người  ” (Caan, 2011 p.317)

Việc xem xét lại nguồn gốc hình thành và phát triển của ngành xây dựng từ những hang động nguyên thủy đã tiết lộ mối quan hệ chặt chẽ giữa không gian bên trong (nội thất) và hình thái bao ngoài (kiến trúc) và cũng đồng thời chỉ ra một quan điểm sai lầm rất phổ biến ngày nay:

“… việc thiết kế và xây dựng có thể được phân loại để phù hợp với những thời đại lịch sử của những phong cách. Tuy nhiên, thời kì tiền sử, một địa hạt đầy hấp dẫn, giai đoạn mà chỉ có những hiện vật hữu hình, thay vì những bằng chứng được ghi chép lại, thì lại hoàn toàn bị cắt rời khỏi môi trường xây dựng đương đại ngày nay. Quan điểm này cũng đồng thời chỉ rõ một nhận định rất đặc hữu:  xem môi trường xây dựng, trên hết như là một hiện tượng bên ngoài (external phenomenon), là một biểu hiện của của sự văn minh, hơn là một trải nghiệm nội tâm cá nhân, được mở rộng từ trong ra ngoài (extends out from within).” (Caan, 2011 p.398)

Nói cách khác, sự phát triển của xã hội loài người và sự ra đời của những phong cách thiết kế đã làm đảo ngược nhận thức của con người về môi trường cư ngụ. Những yếu tố bên ngoài (external conditions) trở thành yếu tố thống trị trong thiết kế. Trong khi đó, những trải nghiệm nguyên sơ nhất giữa con người và không gian bên trong thì đang dần bị quên lãng:

“…nhu cầu của con người về một nơi trú ẩn (shelter) vẫn tồn tại trong chúng ta ngày nay dưới hình thức kí ức về những môi trường đã cưu mang và nuôi dưỡng chúng ta. Những không gian có sự cộng hưởng về mặt cảm xúc (emotional resonance) có thể chính là gợi ý cho câu trả lời: trong một số trường hợp, đó là những kí ức cổ xưa về thiên đường đánh mất, nhưng đồng thời cũng có thể là những nơi chốn gần như bị lãng quên (half-forgotten) mà chúng ta đã từng đi qua khi còn là những đứa trẻ hoặc là người lớn, đang trôi dạt đâu đó trong miền kí ức của chúng ta. Việc tìm kiếm nơi trú ẩn, do đó, mang tính toàn cầu nhưng cũng đồng thời là một hoạt động mang tính cá nhân xét từ bản chất sâu xa nhất.
Một số quan điểm thậm chí đã đưa ý tưởng này đi xa hơn bằng việc cho rằng một trong những kí ức được lưu trữ là một dạng hồi tưởng của một kiểu môi trường nuôi dưỡng lí tưởng: dạ con (the womb)… Ý tưởng về dạ con đặc biệt thú vị ở chỗ nó chỉ ra một cái tham vọng khá chặt chẽ về thiết kế: tạo ra những môi trường có thể hỗ trợ chúng ta một cách toàn diện đồng cũng một sự bảo vệ chắc chắn với thế giới bên ngoài… Không giống như dạ con, cái môi trường bên ngoài này chưa bao giờ tạo điều kiện tối ưu cho sự phát triển của cá thể. Sự mâu thuẫn giữa những nhu cầu nội tại và điều kiện ngoại cảnh thường căng thẳng. Do đó, một không gian nội thất phải có chức năng như một cầu nối giữa những thực tại của thế giới xây dựng (built world) và những điều kiện lí tưởng mà con người tìm kiếm… Điều này giải thích vì sao chúng ta trang trí không gian và thường không để chúng trơ trọi. Những bức tranh trong hang động ở những nơi trú ngụ đầu tiên chính là một nỗ lực truyền đat một thông tin từ trong chính bản thân họ- tổ tiên đầu tiên của chúng ta- vào một cái bình có thể chứa đựng chúng. Không gian nội thất là một không gian đệm trung gian, một khu vực chuyển tiếp (transition zone) giữa bản thân chúng ta và thế giới ở mức độ lớn hơn.”
 (Caan, 2011 p.507)

(Còn tiếp)

Dịch và tổng hợp: Lipv

Nguồn tham khảo:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t02-2-shashi-caan-tu-duy-lai-ve-thiet-ke-va-noi-that/

Caan, S. (2011) Rethinking Design and Interiors- Human beings in the built environment. London: Laurence King Publishing Ltd

Shashi Caan- Tư duy lại về Thiết kế và Nội thất

Featured

[Lời người dịch]

Năm 2012, khoa Thiết kế Nội Thất trường đại học Kiến trúc TP.HCM được đổi tên thành khoa Kiến trúc Nội thất. Sự kiện đó một lần nữa làm dấy lên những tranh cãi vốn đã âm ỉ từ trước trong giới chuyên môn về ranh giới giữa 3 khái niệm: Trang trí nội thất, Thiết kế nội thất và Kiến trúc nội thất.

Năm 2017, khi theo học chương trình đào tạo Thạc sĩ về Kiến trúc Nội thất ở Anh Quốc, tôi đã nhận ra rằng sự nhập nhằng này không chỉ tồn tại trong giới học thuật ở Việt Nam mà cả ở châu Âu và Mỹ. Rethinking Design and Interiors- Human Beings in the Built Environment (Tư duy lại về khái niệm thiết kế và những không gian nội thất- Con người trong môi trường xây dựng) là một trong số ít những cuốn sách chuyên ngành được viết dành riêng cho lĩnh vực nội thất dưới góc độ nghiên cứu học thuật. Cuốn sách đã nêu rõ đồng thời lý giải nguyên nhân đằng sau khoảng trống giữa hoạt động thực hành và nghiên cứu học thuật trong chuyên ngành Nội thất. Chính khoảng cách đó là một trong những nguyên nhân khiến chuyên ngành Thiết kế Nội thất sau bao nhiêu năm ra đời vẫn chưa thể đứng ngang hàng với người anh em của nó – Kiến trúc. Sự chênh lệch đó có thể nhận thấy rất rõ thông qua hệ thống phân cấp đào tạo trong giáo dục và ngành nghề trên thế giới.

Nguồn: https://www.amazon.com/Rethinking-Design-Interiors-Beings-Environment-ebook/dp/B00I0BFK6U

Về tác giả và tác phẩm

Shashi Caan, tác giả của cuốn sách có bằng Cử nhân danh dự BFA Hons (Bachelor of Fine Arts) về Thiết kế Nội thất tại University of Edinburgh, Scotland và 2 bằng Thạc sĩ tại Pratt Institute, New York về Thiết kế công nghiệp và Kiến Trúc, bằng Tiến sĩ Danh dự tại New York School of Interior Design. Sau đó, Shashi Caan tiếp tục giữ một loạt các chức vụ quan trọng trong các tổ chức giáo dục và các công ty lớn trong lĩnh vực thiết kế nội thất như: Trưởng khoa Thiết kế Nội thất trường Parson The New School for Design, New York và chủ tịch của Hiệp hội Kiến trúc sư- Thiết kế nội thất (IFI), là người sáng lập ra GloW-DESIGN, một diễn đàn giúp khai phóng tư duy lý luận và khả năng thực tiễn để giải quyết các vấn đề nhức nhối trong thiết kế ngày nay. Đặc biệt, trong suốt quá trình tham gia đào tạo giáo dục, Shashi Caan đã nhận ra được những bất cập và lỗ hổng chuyên ngành trong lĩnh vực Thiết kế nội thất và đó là động lực để bà xuất bản cuốn sách Rethinking Design and Interiors năm 2011.

 “Bạn đang nắm trong tay một cuốn sách có thể chỉ ra phương pháp thiết kế không gian nội thất đặt trong bối cảnh một thế giới mới đầy phức tạp. Cuốn sách này đào sâu khai thác vào những yếu tố khiến chúng ta trở nên “người” hơn (make us human), những thứ có mối quan hệ mật thiết và tồn tại xung quanh con người. Không gian nội thất chính là một trong những yếu tố đó. Cuốn sách cũng đồng thời giúp người đọc khám phá mối quan hệ sâu kín và mật thiết với những căn phòng của họ, trong những ngôi nhà mà chúng ta đang cư ngụ hay bất kì không gian nội thất nào, nơi diễn ra phần lớn những hoạt động hằng ngày của con người, cả ngày lẫn đêm. Tác giả đã phân tích được nguồn gốc mối quan hệ này xuất phát từ những hang động cổ xưa, nơi mà những con người đầu tiên đã lựa chọn để ẩn nấp khỏi mối đe dọa từ thế giới tự nhiên bên ngoài cho đến những văn phòng cao tầng nơi mà sự chuyển đổi kĩ thuật số phức tạp (tuy vẫn còn vô hình) đang diễn ra bên những không gian tinh tế về mặt nhân trắc học.

Khi học hỏi từ hang động cổ xưa cho đến văn phòng hiện đại, chúng ta dường như đã và đang quên mất một số thứ quan trọng nhất khiến chúng ta trở nên “người” hơn: nhu cầu cơ bản về một chỗ trú ẩn, nhu cầu hạnh phúc và nhu cầu tương tác xã hội. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ nhận ra rằng mỗi một chủ đề trên và nhiều vấn đề liên quan, đang và sẽ tiếp tục được nghiên cứu bởi những nhà khoa học xã hội thông qua hoạt động quan sát, thu thập dữ liệu và phân tích. Ngày nay, phương pháp tiếp cận khoa học này đang trở thành trụ cột trong tư duy thiết kế. Nghệ thuật (vẻ đẹp, cảm xúc và trực giác) của không gian nội thất rất cần một nền tảng khoa học (quan sát, nghiên cứu và phân tích).”

Susan S. Szenasy, Trưởng ban biên tập tạp chí Metropolis Magazine

Đây là một cuốn sách đặc biệt dành riêng cho những ai quan tâm đến góc độ giáo dục và đào tạo trong lĩnh vực Thiết kế Nội thất.

Cuốn sách gồm 4 chương:

Chương 1: Sự tìm kiếm những không gian cư ngụ (The Search for Shelter)

Chương 2: Tồn tại (Being)

Chương 3: Bên trong (Inside)

Chương 4: Thiết kế (Design)

Trong bài viết này, tôi sẽ chỉ tóm lược và dịch trích dẫn một số nội dung chính của 3 chương đầu để nói rõ hơn về việc đổi mới tư duy trong giáo dục và thực hành. Để đọc được toàn bộ nội dung sách, bạn có thể tìm mua tại Amazon dưới hai định dạng: ebook và sách giấy tại đây.

(Còn tiếp)

Dịch và tổng hợp: Lipv

Nguồn tham khảo:

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/t02-1-shashi-caan-tu-duy-lai-ve-thiet-ke-va-noi-that/

Caan, S. (2011) Rethinking Design and Interiors- Human beings in the built environment. London: Laurence King Publishing Ltd

Sắp đặt không gian Nhà ở mùa dịch Covid-19

Featured

Theo Bộ Y tế, đến hiện tại Việt Nam có 44 ca dương tính với Covid-19, 268 trường hợp nghi nhiễm (là những người có dấu hiệu ho, sốt, trở về từ vùng dịch) và 28.979 trường hợp phải cách ly, giám sát y tế. Số lượng người nhiễm tăng theo cấp số nhân dù chính phủ ở các quốc gia thời điểm hiện tại đã gia tăng cách ly, bảo vệ sức khỏe người dân và đảm bảo các phương án phòng chống.

Không có sự bảo vệ an toàn nào bằng một ý thức cao và sự bình tĩnh phòng bệnh trong lúc này. Mỗi cá nhân cần tránh việc đi ra ngoài nếu không cần thiết, tụ tập nơi đông người và cần đầu tư không gian sống đúng nghĩa, đảm bảo an toàn mà còn đem lại những luồng sinh khí tươi mới cho thành viên trong gia đình trong những ngày này.

Hình ảnh: Nguồn Pinterest

1. THƯỜNG XUYÊN SẮP XẾP, DỌN DẸP NHÀ CỬA
Việc sắp xếp gọn gàng và dọn dẹp thường xuyên sẽ mang lại sự thoáng đãng và sạch sẽ cho không gian sống của bạn. Có thể sử dụng xà phòng thông thường là đủ dùng, chỉ khi nào trong nhà có người bệnh, hoặc gần khu vực có người nhiễm virus corona mới cần sử dụng các dung dịch tẩy rửa đặc biệt như Javel hay Cloramin B. Đặc biệt lưu ý, phải vệ sinh tay nắm cửa, vì đó là nơi rất nhiều người tiếp xúc thường xuyên.

2. MỞ CỬA SỔ & SỬ DỤNG LƯỚI CHỐNG CÔN TRÙNG
Việc khai thác tối đa các nguồn năng lượng tự nhiên nhằm hạn chế tạo môi trường ẩm thấp dễ sinh sôi virus là điều quan trọng, nhưng chủ nhà nên kết hợp thêm hệ thống lưới chống côn trùng để đảm bảo an toàn tốt hơn. Mở cửa sổ và sử dụng lưới chống côn trùng là giải pháp thông minh, vừa đảm bảo nguồn nắng gió tự nhiên thông thoáng căn phòng, mà không bị làm phiền bởi các vị khách “không mời mà tới”

3. PHÂN CHIA CÁC KHÔNG GIAN RÕ RÀNG
Hãy phân chia không gian dành cho vật dụng sử dụng bên ngoài và vật dụng sử dụng trong nhà thành hai khu riêng biệt, có thể sử dụng vách ngăn, hộp chứa đựng…Hạn chế việc tiếp xúc giữa các vật phẩm này tạo điều kiện lây nhiễm qua lại.

4. TINH DẦU KHÁNG KHUẨN
Dùng tinh dầu xông có thể làm không khí trong lành và dễ chịu hơn khá nhiều. Đặc biệt là tinh dầu tràm giúp kháng khuẩn cao, tăng sức đề kháng cho thành viên gia đình.

5. MÁY LỌC KHÔNG KHÍ
Máy lọc không khí sử dụng công nghệ cao hoạt động dựa trên nguyên tắc phát ra các ion mang điện tích, tác động vào cấu trúc protein của vi khuẩn, vi rút làm phá vỡ và ngăn chặn sự sinh sôi của chúng. Nhờ đó có thể thanh lọc không khí khử các mùi ẩm mốc, độc hại gây dị ứng và có hại cho sức khỏe. Một số máy lọc không khí trên thị trường có khả năng tạo ẩm tự động bằng cách tạo ra hơi nước thông qua bộ lọc ẩm và bay hơi tự nhiên ra ngoài không khí, giúp việc duy trì độ ẩm trong phòng luôn ở mức tối ưu.

Mùa dịch quan trọng nhất chính là tinh thần cảnh giác, không chủ quan với dịch bệnh.

Bảo vệ sức khỏe cho bản thân chính là bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng.

Tổng hợp: An Nguyen (Splace)