INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 3)

Urban interior

Hình 02. The Markthal– Một công trình phức hợp mang tính biểu tượng cho Rotterdam. Ảnh được chụp vào chuyến đi Hà Lan của tôi năm 2018. “Covered square”- không gian thương mại bên trong (market) hoạt động như một quảng trường công cộng là phần trung tâm lõi khiến toàn bộ công trình trở nên nổi bật, thách thức những định nghĩa truyền thống về hình thái và tỉ lệ giữa kiến trúc- nội thất.

Khái niệm về public interior theo Leveratto được ghi nhận đầu tiên vào thế kỉ 19 từ nghiên cứu còn dang dở của Walter Benjamin- một triết gia, nhà phê bình văn hóa và nhà văn người Đức gốc Do Thái, về sự cư ngụ trong không gian và văn hóa của Paris vào thế kỉ 19 trong mối tương quan với những thành phố hiện đại, khái niệm outside- inside thông qua việc sử dụng kính trong kiến trúc hiện đại, etc- The Arcades Project. Ở đó, public interior được miêu tả như “the dream-houses of the collective”– “where boundaries between public and private blurred in the sudden overlap of commercial purposes and domestic values (nơi mà những giới hạn giữa công cộng và riêng tư bị xóa nhòa một cách đột ngột vì mục đích thương mại và những giá trị nội địa) (Leveratto, 2019).

Đồng thời, sự liên hệ giữa interior và urban cũng xuất phát từ những định nghĩa rất sớm về city như một tổng thể không gian cư ngụ liên tục (uninterrupted inhabited landscape)- Camillo Sitte (1889) hay theo Hermann Sörgel (1918) city là những căn phòng (khối kiến trúc) được liên kết với nhau thông qua những hành lang (hệ thống đường sá) mà ở đó, interior chính là những “open-air room” (Leveratto, 2019).

Sự giao nhau giữa interior và urban đang mở ra những cơ hội và thách thức trong lĩnh vực nghiên cứu cũng như đào tạo giáo dục: đặt ra câu hỏi về việc tư duy lại về khái niệm interior cũng như giới hạn và trọng tâm nghiên cứu trong giáo dục đào tạo cũng như hoạt động thực hành interior design:

“The idea of urban interior challenges an assumption that interior design necessarily has to take place inside a building and shifts the focus to a relational condition- here the “and” between urban and interior is a question of designing and making the relation”

(Attiwill, 2011)

Trên thực tế, những đổi mới tư duy này đã và đang được áp dụng vào các chương trình giáo dục ở bậc cử nhân và thạc sĩ ở các nước như Mỹ, Úc, Thái Lan, UK, Ý, etc dưới hình thức các đồ án sinh viên. Ví dụ như đồ án Interior room: Urban room là đồ án kết hợp giữa sinh viên chuyên ngành interior design và urban planning ở University of Porstmouth- UK (Farrelly & Mitchell 2008), đồ án thiết kế Urban Room cho sinh viên interior design ở RMIT School of Architecture and Design- Australia, Global: Studio– một đồ án thiết kế liên ngành giúp sinh viên phân tích và so sánh khái niệm intertwined space trong urban environment ở các thành phố ở Mỹ và Trung Quốc (Marinic et al., 2021), hay như đồ án thiết kế cho sinh viên chuyên ngành Interior Architecture- DomestiCITY ở University of Technology Thonburi- Thái Lan. Tất cả những đồ án này đều có điểm chung là giúp phá vỡ những định kiến về tư duy không gian “truyền thống” của sinh viên, đặc biệt ngay từ những năm đầu tiên.

Đề bài của các đồ án thường đặt khái niệm interior vào urban environment và khuyến khích sinh viên tiếp cận bắt đầu từ việc tư duy sáng tạo về bản chất của các khái niệm không gian rồi từ đó tiến hành khảo sát thu thập dữ liệu thực tế từ các hoạt động sinh hoạt văn hóa xã hội hằng ngày trước khi thảo luận về ý tưởng thiết kế.

Những assumption về interiority perspective trong built environment (vốn mang tính trực giác và suy đoán, chưa được kiểm định) là thứ khiến tôi luôn trầy trật và hoang mang về năng lực tư duy và kĩ năng chuyên môn của bản thân trong suốt thời gian học cử nhân ở đại học Kiến trúc TP.HCM và kể cả sau này khi tự mày mò viết research proposal để apply cho các chương trình Tiến sĩ về kiến trúc và đô thị của các trường Đại học trên thế giới. Thế nhưng khi nhận ra nó lại chính là một xu hướng đã và đang thành hình trên thế giới trong suốt hơn 50 năm qua, tôi tin rằng năng lực tư duy trừu tượng về các khái niệm rất cụ thể (ví dụ như không gian nội thất, không gian đô thị, không gian kiến trúc) là cầu nối quan trọng nhất giúp kết nối những khái niệm tưởng chừng như cách nhau rất xa này: interior design- collective memory- urban space.

Khi quyết định nghỉ việc, đa số mọi người xung quanh đều thắc mắc vì sao tôi lại muốn từ bỏ một công việc ổn định, lương cao, quay lại “điểm xuất phát” để làm nghiên cứu, một hoạt động “thiếu thực tế” và lại đầy áp lực. Câu hỏi này vốn dĩ đã phản ánh rất rõ một dạng tư duy đơn chiều phổ biến trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng cần hiểu rõ rằng, đó chỉ là một trong số nhiều cách tư duy về cuộc sống mà con người có thể sử dụng. Nói cách khác, một thế giới vật lý tưởng chừng như rất hữu hạn (cuộc sống hằng ngày, kiến thức đã được phổ cập, etc) nhưng thật chất lại có thể được đào sâu và mở rộng đến vô cùng tận thông qua năng lực tư duy trừu tượng của con người. Ý thức được sự tồn tại vô tận của thế giới quan bên trong bộ não nhỏ bé của con người và nỗ lực để leo lên một vị trí đủ bao quát để nhìn rõ được vẻ đẹp phức tạp khôn cùng của cái hệ thống vô hình đang vận hành cuộc sống hằng ngày này là một thứ cảm giác hưng phấn rất khó tìm được trong dạng công việc “9 to 5”.

[Lipv]

INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 1)

INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 2)

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/interiority-va-urban-interior/

Tài liệu tham khảo:

Attiwill, S. (2011). Urban and Interior: Techniques for an urban interiorist. In R. U. Hinkel (Ed.), Urban interior: An informal explorations, interventions and occupations (pp. 11–24). Spurbuchverlag.

Crompton, A. (2001). The Fractal Nature of the Everyday Environment [Article]. Environment and Planning. B, Planning & Design.28(2), 243–254. https://doi.org/10.1068/b2729

Crompton, A. (2005). How big is your city, really?

Hebbert, M. (2005). The Street as Locus of Collective Memory. Environment and Planning D: Society and Space23(4), 581–596. https://doi.org/10.1068/d55j

Leveratto, J. (2019). Urban Interiors: A Retroactive Investigation [Article]. Journal of Interior Design44(3), 161–171. https://doi.org/10.1111/joid.12153

Marinic, G., Radtke, R., & Luhan, G. (2021). Critical Spatial Practices: A Trans-scalar Study of Chinese Hutongs and American Alleyways [Article]. Interiority4(1), 27–42. https://doi.org/10.7454/in.v4i1.79

McCarthy, C. (2005). Toward a Definition of Interiority [Article]. Space and Culture8(2), 112–125. https://doi.org/10.1177/1206331205275020

INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 2)

Featured

Interiority

“Over the last 50 years, in fact, interior disciplines have begun to undergo a profound rethink about their operative field in relation to the transformations that have been affecting the core of their disciplinary interests. As the concept of “interiority” has overcome the boundary of the domestic environment to spread to the public spaces of urban mobility, communication, and mass consumption, interior architecture and design have tried to expand and adapt their thematic horizon by crossing their traditional spatial domain and facing the contemporary places of associated life (Basso Peressut, 2010). Thus, as urban spaces have started to feature rituals and habits of domestic interiors, a consistent part of the culture of interiors has begun to focus its interest on the spaces of the city as a whole, defining a research approach that, although now consolidated, is still little known in its complexity.”

“Trong hơn 50 năm qua, các lĩnh vực về interior (interior disciplines) đã bắt đầu trải qua một quá trình chuyển đổi tư duy sâu sắc trong lĩnh vực thực hành của họ trong mối quan hệ với những sự chuyển đổi đã và đang ảnh hưởng đến bản chất của mối quan tâm chuyên ngành này (disciplinary interest). Bởi vì khái niệm “interiority” đã vượt qua giới hạn của môi trường bên trong (domestic environment) để mở rộng đến các không gian công cộng (public spaces) của sự dịch chuyển, giao tiếp và tiêu thụ hàng loạt trong đô thị (urban mobiliy, communication and mass consumption), kiến trúc và thiết kế nội thất (interior architecture and design) đã cố gắng để mở rộng và thích nghi với giới hạn về đề tài (thematic horizon) bằng cách vượt qua giới hạn truyền thống về không gian và đối mặt với những nơi chốn đương đại (contemporary places) của đời sống liên kết (associated life). Do đó, khi những không gian đô thị bắt đầu quan tâm đến thực hành và thói quen của domestic interiors, một phần cố định của văn hóa về nội thất đã bắt đầu chuyển sự quan tâm đến những không gian của thành phố như một thể thống nhất, định hình thành một hướng tiếp cận trong nghiên cứu – dù rằng đã thành hình, nhưng vẫn còn ít được quan tâm về mức độ phức tạp của nó.”

(Leveratto, 2019)

Nhận định trên đã giúp khái quát phần nào xu hướng nghiên cứu và sự dịch chuyển – mở rộng về các khái niệm cơ bản trong lĩnh vực interior trên thế giới trong hơn 50 năm vừa qua. So sánh ở Việt Nam, tính từ thời điểm tôi tốt nghiệp cử nhân Thiết kế nội thất ở trường đại học Kiến Trúc Tp.HCM năm 2013 cho đến bây giờ (10 năm), dù đã có những sự thay đổi nhất định về hình thức (như thay đổi cách gọi tên từ thiết kế nội thất sang kiến trúc nội thất trong chuyên ngành đào tạo cùng với sự thêm vào các môn học mới) thì dường như cách hiểu về interior vẫn được định nghĩa bởi những giới hạn kiến trúc vật lý như một không gian tách biệt với môi trường xây dựng bên ngoài.

Sự dịch chuyển này có thể được khái quát thông qua một “responsive phenomenon” (một hiện tượng mang tính đáp ứng) hay “transformative concept” (một khái niệm chuyển dịch): interiority. Trong bài phân tích Toward a Definition of Interiority (2005), interiority theo McCarthy không phải là điều kiện cố định tuyệt đối (absolute condition) phụ thuộc vào các định nghĩa kiến trúc (restrictive architectural definitions), như một không gian vật lý có giới hạn cụ thể mà chỉ một tính chất trừu tượng của không gian (abstract quality), cho phép giới hạn và định nghĩa một không gian bên trong (interior)(McCarthy, 2005). Nói cách khác, khái niệm interiority giúp phá vỡ các giới hạn kiến trúc vật lý của interior và cho phép chúng được luân chuyển linh hoạt trong một môi trường rộng lớn hơn- không gian đô thị. Khi nói về giới hạn (boundary) của interiority, McCarthy cho rằng đó một ngưỡng (threshold) đánh dấu sự chuyển đổi, mở rộng “the spatial definition of the extent of interiority, rather than access inside”, hay thậm chí trộn lẫn vào nhau giữa interiority và exteriority, “the point across which they exchange and potentially collapse into each other” (McCarthy, 2005). Do đó, chúng ta cần phân biệt rõ interiority- exteriority với inside- outside bởi vì nếu inside- outside là giới hạn vật lý của các hình khối kiến trúc thì interiority- exteriority là những tính chất len lỏi bên trong và đồng thời bao trùm lên trên tất cả những giới hạn đó (McCarthy, 2005):

Interiority (climatic, physical, psychological, social) is the point at which the understanding of what an interior has become elastic

(McCarthy, 2005)

(Còn tiếp)

[Lipv]

INTERIORITY VÀ URBAN INTERIOR (Phần 1)

Link bài viết gốc: https://linh-phamvu.com/interiority-va-urban-interior/

Tài liệu tham khảo:

Attiwill, S. (2011). Urban and Interior: Techniques for an urban interiorist. In R. U. Hinkel (Ed.), Urban interior: An informal explorations, interventions and occupations (pp. 11–24). Spurbuchverlag.

Crompton, A. (2001). The Fractal Nature of the Everyday Environment [Article]. Environment and Planning. B, Planning & Design.28(2), 243–254. https://doi.org/10.1068/b2729

Crompton, A. (2005). How big is your city, really?

Hebbert, M. (2005). The Street as Locus of Collective Memory. Environment and Planning D: Society and Space23(4), 581–596. https://doi.org/10.1068/d55j

Leveratto, J. (2019). Urban Interiors: A Retroactive Investigation [Article]. Journal of Interior Design44(3), 161–171. https://doi.org/10.1111/joid.12153

Marinic, G., Radtke, R., & Luhan, G. (2021). Critical Spatial Practices: A Trans-scalar Study of Chinese Hutongs and American Alleyways [Article]. Interiority4(1), 27–42. https://doi.org/10.7454/in.v4i1.79

McCarthy, C. (2005). Toward a Definition of Interiority [Article]. Space and Culture8(2), 112–125. https://doi.org/10.1177/1206331205275020