Thiết kế là một trong những chuyên ngành nghề đòi hỏi khả năng tư duy bền bỉ và sức sáng tạo không ngừng nghỉ. Trong quá trình làm việc, nhà thiết kế cần suy nghĩ và tìm kiếm những ý tưởng mới cho các công trình và dự án khác nhau trong cùng một thời điểm. Việc thường xuyên phải làm việc dưới áp lực cao cùng cường độ làm việc liên tục có khả năng sẽ dẫn đến việc suy giảm sức sáng tạo. Con người để giải quyết vấn đề dễ dàng hơn thường có xu hướng lựa chọn những phương án đã có sẵn với lối tư duy thông thường để đưa ra các đáp án một cách nhanh chóng, khi việc này diễn ra thường xuyên trong một khoảng thời gian dài dễ dẫn đến việc tư duy của chúng ta sẽ trở thành lối mòn và dễ hài lòng với kết quả thu được.
Vậy, làm thế nào để thoát khỏi lối mòn tư duy đó? Làm thế nào để khai phá sức sáng tạo và duy trì khả năng tư duy trong thiết kế?
Trong quy mô của bài viết ngày hôm nay, Splace sẽ giới thiệu đến quý độc giả 3 phương pháp sáng tạo có tính ứng dụng, rõ ràng và hiệu quả, những phương pháp này đã được các nhà khoa học trên thế giới tìm ra và ứng dụng.
Phương pháp sơ đồ tư duy (Mindmap): phương pháp này khá phổ biến trên thế giới, được đề ra bởi tác giả Tony Buzan người Anh. Ứng dụng phương pháp này trong quá trình tư duy sẽ giúp cho người thiết kế phát huy được tiềm năng cùng một lúc của bán cầu não trái và phải. Bán cầu não trái xử lý ngôn ngữ, con số, logic và các sự kiện xảy ra tiếp nối và các thao tác phân tích. Bán cầu nảo phải xử lý nhịp điệu, không gian, ước mơ, tưởng tượng, màu sắc và sự tổng hợp thông tin (Tony Buzan 1990). Vì thế, phương pháp này thể hiện bằng sơ đồ cùng các hình vẽ, biểu tượng liên quan đến vấn đề cần bàn luận, những hình ảnh hoặc ý tưởng chính được chọn sẽ được thay đổi kích thước và màu sắc để dễ dàng tìm ra đáp án.
Phương pháp 6 chiếc mũ tư duy (six thinking hats): phương pháp “6 chiếc mũ tư duy” được nghiên cứu và phát triển bởi tiến sĩ Edward de Bono năm 1980 và được miêu tả chi tiết trong cuốn sách “Six thinking Hats”. Phương pháp này giúp người sử dụng có nhiều cái nhìn cùng một lúc về một đối tượng mà mỗi một quan điểm đều mang tính khác biệt. Cái hay của “6 chiếc mũ tư duy” này được đánh giá từ việc phương pháp này kích hoạt suy nghĩ song song, đa chiều. Người thực hành khi đội nón mang màu khác nhau sẽ tư duy theo định hướng được yêu cầu mà không bị các yếu tố tâm lý hay thói quen tư duy làm “nhiễu loạn”, từ đó đưa ra cái nhìn khách quan từ nhiều góc độ cho cùng một vấn đề.
Cụ thể hơn:
– Nón trắng: Trung tính – tập trung trên thông tin rút ra được, các dẫn liệu và những thứ cần thiết.
– Nón đen: Phê phán và phản biện lại chủ đề những vấn đề được đặt ra xung quanh chủ thể.
– Nón vàng: Tích cực, lạc quan và đưa ra những lợi ích và các điều tốt đẹp.
– Nón lục: Sáng tạo, tìm ra các giả thuyết mới
– Nón xanh dương: Tổ chức lãnh đạo, suy nghĩ và kết nối các sự kiện, đưa ra kết luận và hoàn thiện Concept
Phương pháp tư duy hình thái (Lateral thinking): phương pháp này có cùng cha đẻ với phương pháp 6 chiếc mũ tư duy (six thinking hats) – Edwards De Bono. Tác giả nhận định “lối tư duy một chiều được sử dụng để thay đổi các quan niệm và nhận thức thay vì cố gắng một cách cứng nhắc với các khái niệm và nhận thức tương tự trước đó” (Edward De Bono 1997). Ứng dụng phương pháp này người nghiên cứu cần đưa ra hàng loạt các câu hỏi mà đi ngược lại với hướng giải quyết vấn đề thông thường từ nhiều khía cạnh và phản biện lại kết quả liên tục.
Cụ thể:
– Liệt kê tất cả các giả thiết được đặt ra
– Đặt câu hỏi từ nhiều góc độ, đặt biệt là những góc độ trái chiều
– Thay đổi góc nhìn trái ngược với kết quả ban đầu và bắt đầu phản biện lại kết quả.
Với những phương pháp được liệt kê và phân tích ở trên, các nhà thiết kế sẽ có thêm công cụ để nghiên cứu và sáng tạo trong quá trình làm việc và thực hiện dự án của mình. Lẽ dĩ nhiên, không có phương pháp nào là vĩnh cửu có thể giải quyêt được mọi vấn đề cũng như không có công cụ nào là hoàn hảo nếu không được thực hành thường xuyên.
Mọi phương pháp sáng tạo đều là sáo rỗng nếu những phương pháp không được ứng dụng trên một nền kiến thức tích luỹ đủ.
(Còn tiếp…)
Tổng hợp và phân tích: A.N
Nguồn tham khảo:
Tony Buzan (1990) The Mind Map Book, Penguin Books Usa Inc.
Edward De Bono 1997 Lateral Thinking: Creativity Step by Step, Harper and Row Usa Inc.
Truyền thống là một sự tương đồng mang tính xã hội của những thói quen cá nhân, và trong nghệ thuật nó cũng đóng vai trò tương tự. Truyền thống giúp giải phóng người nghệ sĩ khỏi những lựa chọn dễ gây xao nhãng và không cần thiết, để từ đó, họ có thể đặt toàn bộ tâm trí vào vấn đề cốt lõi nhất. Khi một lựa chọn mang tính nghệ thuật được thông qua, bất kể khi nào và bởi ai, thì nó đều không thể vãn hồi mà không gây ra thiệt hại, và do đó nó nên nằm trong ngưỡng chung về thói quen để không gây phiền nhiễu cho chúng ta về sau.
Truyền thống không nhất nhiết là lỗi thời và cũng không đồng nghĩa với lạc hậu. Ngoài ra, truyền thống không cần phải có xuất phát điểm quá xa xôi mà có thể bắt nguồn gần đây. Ngay khi con người lao động đầu tiên gặp một vấn đề và tìm cách vượt qua nó thì đó là bước đầu tiên trong quá trình hình thành truyền thống được tiến hành. Khi một người lao động khác quyết định sử dụng lại cùng một giải pháp, truyền thống bắt đầu được định hình và khi người lao động thứ ba quyết định tiếp nối và thêm vào đó sự đóng góp của cá nhân, truyền thống gần như được hình thành. Đối với một vài vấn đề dễ giải quyết, con người có thể quyết định trong vài phút. Thế nhưng cũng có những vấn đề đòi hỏi thời gian, có thể là một ngày, một năm hay thậm chí cả một đời người. Trong những trường hợp trên, giải pháp đôi khi chỉ là sản phẩm của một người.
Tuy nhiên, cũng có những giải pháp chỉ được tìm ra sau khi trải qua rất nhiều thế hệ, thời điểm mà truyền thống đóng vai trò sáng tạo. Những giải pháp đó chỉ có thể được thực hiện bởi truyền thống, bởi sự trân trọng và sự đóng góp vào thành quả của những thế hệ đi trước, rằng mỗi thế hệ đều có thể tạo ra những thúc đẩy tích cực vào giải pháp của vấn đề. Khi truyền thống giải quyết được một bài toán khó và có dấu hiệu chậm lại, đó là lúc chu trình của nó đã được hoàn thiện. Thế nhưng, trong kiến trúc, cũng như trong những hoạt động khác của loài người và trong tự nhiên, có những chu trình chỉ vừa bắt đầu, một số đã hoàn thiện, và một số khác đang trong giai đoạn phát triển và tất cả chúng đều cùng tồn tại trong một xã hội.
Cũng có những truyền thống đưa ta quay về lại thời kì sơ khai của loài người. Những truyền thống đó vẫn đang sống và có lẽ sẽ trường tồn cùng với xã hội loài người như truyền thống trong nghề làm bánh mì hay truyền thống trong nghề đúc gạch.
Mặt khác, cũng có những truyền thống mặc dù chỉ mới xuất hiện và chỉ đang ở trong những giai đoạn đầu của chu trình phát triển, thực tế đã được định là chết. Chủ nghĩa hiện đại không có nghĩa là năng nổ và thay đổi thì không phải lúc nào cũng tốt hơn. Ngược lại cũng có những trường hợp đòi hỏi sự cải cách. Quan điểm của tôi là cải cách bắt buộc phải là một giải pháp thấu đáo cho một sự thay đổi trong những điều kiện nhất định chứ không vì chiều theo lợi ích của chính nó. Không ai hỏi rằng liệu trạm điều khiển không lưu được xây dựng dựa trên thói quen của người nông dân và một kết cấu công nghiệp như trạm điện hạt nhân có thể tạo ra một truyền thống mới cho những người thiết kế.
Khi một truyền thống cụ thể được xác lập và chấp nhận, nhiệm vụ của mỗi một nghệ sĩ là duy trì truyền thống đó với sự sáng tạo của mình và một cái nhìn sâu sắc để từ đó tạo ra động lực thúc đẩy chu kì phát triển của truyền thống từ chỗ thoát khỏi sự trì trệ cho đến khi hoàn thiện. Truyền thống sẽ giúp đỡ người nghệ sĩ trong nhiều quyết định nhưng đổi lại họ cũng có nhiệm vụ ngăn cản sự lụi tàn của truyền thống trong khả năng của mình. Thực tế chỉ ra rằng, khi truyền thống càng phát triển, người nghệ sĩ càng phải nỗ lực hướng về nó nhiều hơn.
Truyền thống đối với những người nông dân chính là thành trì bảo vệ duy nhất cho văn hóa của họ. Người nông dân không thể phân biệt thứ bậc giữa những phong cách xa lạ và nếu họ bị trật khỏi đường ray truyền thống, họ sẽ không thể tránh khỏi những tai họa. Quyết tâm phá vỡ truyền thống trong một xã hội truyền thống từ gốc như của những người nông dân chính là một dạng sát thủ truyền thống và người kiến trúc sư phải thể hiện sự tôn trọng với truyền thống mà họ đang xâm phạm. Trong khi những giải pháp mà họ ứng dụng trong thành thị lại là một vấn đề khác, bởi vì ở nơi đó, người dân và môi trường đô thị có thể tự chăm sóc bản thân mình.
Những kiến trúc sư nên tin rằng truyền thống không phải là rào cản với đối họ. Khi toàn bộ sức mạnh của trí tượng con người được chống lưng bởi sức nặng của một truyền thống đang sống, thì kết quả tác phẩm của họ sẽ tốt hơn rất nhiều so với bất kì một nghệ sĩ nào không dựa vào hoặc chối bỏ truyền thống của chính họ.
Nỗ lực của một người có thể đem lại một tiến bộ hoàn toàn không cân xứng nếu như người đó đang xây dựng dựa trên truyền thống sẵn có. Điều đó giống như thêm một tinh thể siêu nhỏ vào một giải pháp vốn đã cực kì bão hòa để từ đó cả tổng thể bỗng kết tinh lại một cách ngoạn mục. Tuy vậy sự kết tinh trong nghệ thuật thì khác, nó không phải là thứ chỉ xảy ra một lần và mãi mãi mà một hoạt động phản xạ cần phải luôn được làm mới. “Biết đủ tức là đủ, tức là đủ. Biết nhàn là nhàn, tức là nhàn.” (Lão Tử)
Kiến trúc vẫn luôn là một trong những môn nghệ thuật mang tính truyền thống. Một công trình kiến trúc phải được ứng dụng, hình thức của nó đa số được quyết định bởi những tiền lệ và công trình kiến trúc thường được lắp đặt trong cộng đồng nơi mà nó được nhìn thấy mỗi ngày. Người kiến trúc sư nên thể hiện sự tôn trọng với công sức của những thế hệ đi trước và cảm xúc của cộng đồng để không sử dụng kiến trúc như một công cụ quảng cáo bản thân. Sự thật rằng, không có kiến trúc sư nào mà không vay mượn từ những kiến trúc đi trước, nếu họ càng chắt lọc kỹ lưỡng từ nguyên bản thì một phần lớn thiết kế của họ một ngày nào đó cũng sẽ trở thành một phần của truyền thống. Vậy thì tại sao người kiến trúc sư phải gạt bỏ truyền thống của chính đất nước hay cộng đồng mình? Tại sao người kiến trúc sư lại cố gán ghép những hình thức ngoại lai vào truyền thống vốn có để tạo ra một tổng thể giả tạo và miễn cưỡng? Tại sao người kiến trúc sư phải xúc phạm đến những kiến trúc sư đi trước bằng việc làm biến dạng hoặc áp dụng một cách lệch lạc những ý tưởng của họ? Điều này xảy ra khi một yếu tố kiến trúc, vốn phải trải qua nhiều năm để đạt được một kích thước, hình dạng và công năng hoàn chỉnh, nay lại bị treo ngược hoặc phóng to đến mức không thể nhận dạng và mất đi tính công năng vốn có, đơn giản chỉ để tô điểm cho sự hám danh một cách ích kỷ của người kiến trúc sư.
Hãy lấy một ví dụ rằng: Con người đã mất rất nhiều năm để có thể thiết kế một kích thước chuẩn cho một ô cửa sổ trong nhiều kiến trúc truyền thống khác nhau. Ngày nay, nếu một kiến trúc sư vô tình mắc sai lầm bằng việc phóng to kích thước ô cửa sổ cho đến khi nó chiếm hữu toàn bộ bức tường, anh ta sẽ phải đối diện với một vấn đề: bức tường kính mới này sẽ nhận bức xạ gấp 10 lần so với một bức tường đặc. Bây giờ, để che bóng cho ô cửa sổ, anh ta sẽ thêm vào một tấm chắn sáng (a brise soleil) thực chất chỉ như một cái màn sáo (Venetian blind) và căn phòng vẫn sẽ nhận hơn 300% bức xạ so với một căn phòng có tường đặc. Ngoài ra, khi kiến trúc sư nới rộng độ dày của những lát chắn ở cái màn sáo từ 4cm lên 40cm để cân xứng với kích thước của bức tường kính, vậy thì kết quả sẽ là gì? Thay vì chấp nhận một nguồn sáng dịu nhẹ từ màn sáo, nó sẽ làm nhức mắt mọi người khi ở trong một căn phòng tràn ngập những mảng bóng đổ nổi bật trên cái nền sáng chói lóa.
Không chỉ thế, tầm nhìn, vốn được đảm bảo bởi thứ trước khi là bức tường kính này, nay đã bị lột trần hoàn toàn bởi những thanh chắn lớn cắt ngang. Ngay cả khi trong điều kiện khí hậu lạnh như ở Paris, một bức tường kính vẫn bị có thể bị xem như là một sự cường điệu mất quá đà. Trong suốt một mùa hè oi ả năm 1959, nhiệt độ bên trong của tòa nhà UNESCO, mặc dù đã sử dụng hệ thống máy lạnh để làm mát nhưng dưới tác động của hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ trong những bức tường kính đã tăng cao đến mức nhiều nhân viên ngất xỉu. Không cần phải bình luận thêm sau đó về sự ra đời của những bức tường kính và tấm chắn sáng ở những quốc gia nhiệt đới và thật khó để tìm ra một ví dụ về kiến trúc nhiệt đới hiện đại mà không sử dụng các yếu tố này.
Nếu như người kiến trúc sư có thể bước đi một cách tỉnh táo giữa truyền thống của văn hóa, thì họ không có gì để lo rằng chất nghệ sĩ trong họ sẽ bị bóp nghẹt. Xa hơn thế nữa, chính điều đó sẽ tự bộc lộ bản thân nó trong sự đóng góp tích cực vào truyền thống cũng như vào sự tiến bộ của nền văn hóa cộng đồng của chính người kiến trúc sư. Khi kiến trúc sư phải làm việc với một truyền thống rõ ràng, ví dụ như một ngôi làng được xây dựng bởi những người nông dân, thì họ không có quyền phá vỡ truyền thống đó chỉ vì một sự ngẫu hứng vô lý mang tính cá nhân. Những thứ có thể áp dụng ở những thành phố quốc tế như Paris, London hay Cairo sẽ giết chết một ngôi làng. Tâm trí con người vốn rất phức tạp nên mỗi một quyết định của họ đều đặc biệt. Sự phản ứng của họ với môi trường xung quanh chính là sự độc đáo của riêng họ. Khi giải quyết những bài toán liên quan đến con người, nếu bạn chỉ xem con người như một tổng thể chung chung trừu tượng và chỉ tận dụng những đặc điểm chung thì bạn đã phá hỏng đi sự độc đáo của mỗi cá thể. Những người quảng cáo lợi dụng những điểm yếu chung của con người, những nhà sản xuất cố gắng làm hài lòng thị hiếu số đông, những người làm giáo dục thì rèn luyện những phản xạ chung, tất cả những hoạt động đó đều sẽ giết chết tâm hồn. Mỗi hành động đó, việc đề cao quá mức những đặc điểm chung, đều sẽ yếu tố cá nhân bị gạt bỏ. Ở một mức độ nào đó, mỗi một cá nhân đều phải hi sinh vì tập thể, nếu không thì xã hội sẽ không thể hình thành và con người sẽ chết trong cô độc. Thế nhưng mỗi chúng ta nên tự hỏi chính bản thân mình, dựa trên đặc tính con người, làm thế nào để những yếu tố cá nhân và tập thể có thể được cân bằng. Một cách chắc chắn và dễ dàng được chấp nhận một cách rộng rãi, những kẻ quảng cáo cho cái chung đã chiến thắng và loại bỏ khỏi cuộc sống hiện đại cái truyền thống của mỗi cá thể. Sự cổ xúy cho sự tương đồng (sameness) đã chiến thắng tuyệt đối và dễ dàng loại bỏ khỏi cuộc sống hiện đại cái truyền thống của mỗi cá thể.
Hình 7. Mặt bằng của hai ngôi nhà của người nông dân (Fathy 1973)
Hình 8. Sân trong của một ngôi nhà của nông dân (Fathy 1973)
Truyền thông đại chúng, sản xuất hàng loạt, giáo dục đại trà chính là dấu ấn của xã hội hiện đại của chúng ta, nơi mà ngay cả cộng sản hay tư bản, đều giống nhau đến mức không thể phân biệt. Một người công nhân điều khiển máy trong một nhà máy chẳng hề đặt bản thân vào trong những thứ mà máy móc của anh ta tạo ra. Những sản phẩm được tạo ra bởi máy móc là đồng nhất, không mang dấu ấn cá nhân và không hấp dẫn đối với người sử dụng cũng như bản thân người thợ đứng máy (machine minder). Những sản phẩm làm bằng tay hấp dẫn với chúng ta bởi vì nó chứa đựng cảm xúc của người thợ thủ công. Mỗi một sự dị biệt, kì lạ và khác biệt là kết quả những quyết định được đưa ra tại từng thời điểm của quá trình sản xuất, sự thay đổi trong thiết kế là khi người thợ thủ công cảm thấy nhàm chán khi với sự lập lại của những mô tuýp giống nhau hay việc thay đổi màu sắc khi một màu sắc hoặc một loại chỉ dệt bị sử dụng hết, chính là bằng chứng cho sự tương tác “sống” liên tục của người thợ với nguyên liệu của mình. Do đó, khi ta sử dụng những sản phẩm đó, ta sẽ hiểu được cá tính của người thợ thủ công thông qua từng sự ngập ngừng hay tính hài hước (cài gắm bên trong sản phẩm), và cũng vì lý do này mà sản phẩm đó sẽ trở thành một phần có giá trị trong cộng đồng của nó.
Người dịch: Lipv
Nguồn tham khảo:
Fund, W.M (2011) New Gourna Village: Conservation and Community
Fathy, H. (1973) Architecture for the Poor: An experiment in rural Egypt, Chicago London: The University of Chicago
Tôi cho rằng chúng ta không thể giải quyết cuộc khủng hoảng nói chung trong kiến trúc Ai Cập chỉ bằng việc xây dựng một hoặc hai ngôi nhà hay thậm chí cả một ngôi làng chỉn chu như một kiểu hình mẫu. Thay vào đó, chúng ta phải cố gắng chẩn đoán đúng bệnh để từ đó hiểu được nguyên nhân cơ bản của sự khủng hoảng này và giải quyết nó từ gốc.
Sự suy tàn của văn hóa bắt nguồn từ chính mỗi cá nhân khi họ phải đối diện với những lựa chọn mà bản thân họ không đủ khả năng đưa ra quyết định và chúng ta phải giải quyết sự khủng hoảng đó ngay từ chính giai đoạn này. Xây dựng là một hoạt động sáng tạo mà ở đó khoảnh khắc mang tính quyết định chính là thời điểm hình thành ý tưởng (the instant of conception) – thời điểm mà cái tinh thần của kiến trúc bắt đầu thành hình và tất cả những đặc điểm của một sáng tạo mới được cho hiển lộ.
Nếu như những đặc tính của một sinh vật sống là không thể thay đổi từ khoảnh khắc sự thụ tinh được bắt đầu thì đặc tính của một công trình kiến trúc được quyết định bởi một phức hợp những quyết định được lựa chọn bởi một tập thể có trách nhiệm trực tiếp trong tất cả mọi giai đoạn của quá trình xây dựng.
Do đó, thời điểm hình thành ý tưởng để tạo nên hình dáng cuối cùng của một cá thể sống hay một công trình xây dựng là một tập hợp của những giai đoạn mang tính quyết định trong tổng thể quá trình sáng tạo. Nếu chúng ta có thể xác định và nắm bắt được những giai đoạn này thì chúng ta có thể kiểm soát được toàn bộ quá trình hình thành đó.
Việc thực hành một cách có chủ đích những quyết định hay còn gọi là quá trình đưa ra quyết định chính là hoạt động trung tâm của sự sống và khi một thực thể sống có càng nhiều cơ hội được lựa chọn thì mức độ phức tạp trong đời sống của sinh vật ngày càng được nâng cao.
Từ những thực thể sống đơn giản giản nhất được biết đến như luân trùng (rotifera), loài sinh vật mà toàn bộ sự sống của chúng chỉ được phân biệt bằng hai khái niệm: ăn được (edible) và không ăn được (inedible) cho đến những sinh vật phức tạp nhất như loài người, loài sinh vật mà toàn bộ cuộc sống của chúng được lấp đầy bởi những quyết định được lựa chọn hoặc phải lựa chọn. Không có sinh vật nào trong suốt đời sống của nó mà không phải trải qua quá trình lựa chọn. Tồn tại chính là để lựa chọn. (To be alive is to make decisions)
Những quyết định mà một con người phải lựa chọn thì tinh tế hơn nhiều và đòi hỏi sự đánh giá có ý thức với nhiều nhân tố tham gia hơn hẳn so với những sinh vật đơn giản. Hơn thế nữa, những quyết định của loài người khác biệt hơn hẳn về mặt chất lượng so với những sinh vật khác vì con người có khả năng thay đổi thế giới xung quanh họ bằng những quyết định của chính họ. Những quyết định đó có thể khiến diện mạo, bản chất thế giới này thay đổi một cách sâu sắc. Bởi vì mỗi quyết định của con người đều mang một tiềm năng to lớn, cả tích cực lẫn tiêu cực, cho nên trách nhiệm của con người cũng rất nặng nề.
Đây cũng chính là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của tình trạng khó khăn của con người. Bởi vì tất cả những lựa chọn của con người đều có khả năng thay đổi thế giới nên họ không thể thoát khỏi chính những quyết định này. Con người hoàn toàn ý thức được sự tích cực hay tiêu cực mà họ gây ra cũng như vẻ đẹp hay sự xấu xí được tạo ra từ đó.
Chuyện kể rằng, ngày xưa khi thượng đế gọi các thiên thần đến để trao cho họ trách nhiệm của việc ra quyết định, các thiên thần đã từ chối một cách khéo léo để có thể mãi mãi giữ được sự hòa hợp hoàn hảo với vũ trụ này.
Thượng đế sau đó đề nghị những ngọn núi chấp nhận món quà này. Tuy nhiên những ngọn núi cũng từ chối nó, hài lòng để bị lệ thuộc vào sức mạnh của tự nhiên. Thế nhưng khi thượng đế trao cho con người sự trách nhiệm như một món quà thì những sinh vật cao ngạo đó đã chấp nhận nó mà đã không ý thức được hậu quả.
Chính vì lẽ đó mà ngày nay, con người dù muốn hay không thì luôn bị trói buộc vào trách nhiệm, thứ mà cả những thiên thần lẫn những ngọn núi đều e sợ. Nhưng đồng thời việc này cũng chứng minh được sự vĩ đại của loài người hơn hẳn những sinh vật khác. Do đó, chúng ta không được quên rằng, chúng ta đã chấp nhận thử thách và nếu bị đánh bại thì chúng ta sẽ bị xem như một sinh vật đầy tự phụ và đáng khinh nhất của tạo hóa.
Thế giới này tại bất kỳ thời điểm nào luôn là một trang giấy trắng chờ ngòi bút của chúng ta vẽ lên, từ một bãi đất trống có thể mọc lên một nhà thờ hay một đồi rác thải. Bởi vì không bao giờ có hai người khác nhau có thể ra cùng một quyết định trong cùng hoàn cảnh, nên đó là cái mà chúng ta gọi là sự đa dạng về tính cách. Quá trình đưa ra quyết định, sự lựa chọn hay sự tự biểu hiện hay văn hoa hơn có lẽ là khúc dạo đầu cần thiết cho toàn bộ quá trình bộc lộ bản thân/ tự biểu hiện.
Một quyết định sáng suốt có thể đạt được bằng cách tham khảo truyền thống hoặc dựa trên những lý luận logic và những phân tích khoa học. Cả hai quá trình trên đều có thể tạo ra kết quả tương đương: nếu truyền thống được gắn liền với những lựa chọn dựa trên những trải nghiệm thực tế của nhiều thế hệ với cùng một vấn đề thì những phân tích khoa học chỉ đơn giản là những quan sát một cách có tổ chức về các hiện tượng của vấn đề.
Những lựa chọn tinh tế nhất xảy đến khi con người tạo ra một thứ gì đó. Trong cuộc sống hằng ngày, có nhiều lựa chọn sáng suốt được đưa ra dựa trên sự hình thành của thói quen, thế nhưng việc sáng tạo ra một vật sẽ đòi hỏi (những) quyết định quy mô hơn là việc thực hiện những chức năng của cuộc sống.
Một điều tất yếu rằng một người có thể tạo ra một điều gì đó dựa trên thói quen – và điều đó sẽ chỉ tồn tại và tốt đẹp nhờ vào giá trị cuối cùng của những quyết định được đưa ra khi họ bắt đầu cố gắng tạo ra vật thể đó và đồng thời cũng nhờ vào hiệu quả từ những quyết định nhỏ xảy ra trong quá trình tạo thành dựa trên thói quen này.
Tuy vậy, cách tốt nhất để tạo ra cái đẹp không nhất thiết phải là việc tạo ra một thiết kế độc đáo hoặc nguyên bản. Sự thật rằng ngay cả trong những sáng tạo của thượng đế, ý tưởng thiết kế cũng phải được thay đổi để tạo ra tính cá thể trong loài người hay để có thể chuyển đổi tỉ lệ của vẻ đẹp giữa Cleopatra và Caliban đơn giản chỉ bằng việc điều chỉnh vị trí hoặc kích thước của đường nét trên gương mặt. Thật thú vị khi quan sát được thói quen trên thực tế có thể giải phóng con người khỏi trách nhiệm với những quyết định kém thú vị và thay vào đó, họ có thể tập trung vào những điều quan trọng hơn trong sáng tác.
Một bộ não không thể ra nhiều hơn một số lượng nhất định các quyết định trong một thời gian cố định. Do đó một vài quyết định trong số đó được chuyển về tình trạng vô thức. Một người thợ dệt thảm với kĩ năng điêu luyện đến mức không cần phải suy nghĩ về từng chuyển động một mà có thể chỉ cần tập trung vào thiết kế của tấm thảm như thể nó được dệt ra từ chính những ngón tay của cô ấy. Người thợ ấy như một nhạc sĩ- một người có thể đặt toàn bộ tâm trí của mình vào việc trình diễn tác phẩm mà không cần phải chú tâm vào từng ngón tay của mình như thể nó có thể tự tạo ra âm thanh.
(Còn tiếp)
Người dịch: Lipv
Nguồn tham khảo:
Fund, W.M (2011) New Gourna Village: Conservation and Community
Fathy, H. (1973) Architecture for the Poor: An experiment in rural Egypt, Chicago London: The University of Chicago
Năm 2018, tôi đang theo học chương trình thạc sĩ Kiến trúc Nội thất tại Scotland, Anh Quốc. Trong buổi học đầu tiên về Phát triển bền vững, thầy giáo tôi, một kiến trúc sư người Úc, đã bày tỏ sự ngạc nhiên pha lẫn đôi chút thất vọng khi nhận định rằng có rất ít cuốn sách về kiến trúc bền vững ngày nay đề cập đến Hassan Fathy- một kiến trúc sư lớn của Ai Cập trong thế kỉ 20. Theo ông, Hassan Fathy là một trong những kiến trúc sư chân chính và tiêu biểu nhất cho khái niệm kiến trúc bền vững từ những năm 50 của thế kỉ 20. Ngày nay, vào thế kỉ 21, khi nói về kiến trúc bền vững, người ta thường nói về các hệ thống đo lường tiêu chuẩn quốc tế với những công nghệ kĩ thuật tiên tiến mà quên rằng bản chất của sự bền vững chính là sự tự nhiên. Hassan Fathy là người đi tiên phong trong việc chọn lọc, nghiên cứu và làm sống dậy những vật liệu tự nhiên và phương pháp xây dựng lâu đời trong kiến trúc dân dụng truyền thống của Ai Cập.
Hình 1. KTS Hassan Fathy (1900-1989)- bên phải (nguồn: Wikipedia)
Năm 1946, Hassan Fathy được giao thiết kế một khu làng mới cho khoảng 7000 nông dân của Gourna, một làng nghèo nổi tiếng về nghề đào mộ bất hợp pháp. Mục đích của dự án tái định cư này là chấm dứt nạn đào mộ và trộm cắp bất hợp pháp đồng thời cung cấp cho người dân một nơi sống mới, một khởi đầu mới. Hassan Fathy thực sự tin rằng đây chính là cơ hội hiếm có để ông có thể ứng dụng các nghiên cứu của mình vào thực tế cuộc sống, tạo ra một ngôi làng kiểu mẫu để đem lại những thay đổi cơ bản trong cuộc sống sinh hoạt của người nghèo ở những vùng ngoại ô, nông thôn Ai Cập. Toàn bộ quá trình phát triển dự án tái định cư New Gourna được ông ghi lại một cách chi tiết trong cuốn sách Kiến trúc cho người nghèo(Architecture for the Poor, 1969). Tuy nhiên, trên thực tế, dự án New Gourna đã bị bỏ dở sau 2 năm tiến hành vì những bất cập trong chính sách quản lí và kinh phí từ chính phủ. Mãi đến năm 2011, những giá trị thực tiễn của dự án mới được chính thức công nhận thông qua một báo cáo, khảo sát thực địa của tổ chức World Monument Fund về tình trạng kiến trúc ngôi làng và sự tương tác giữa kiến trúc của Hassan Fathy với cuộc sống của người dân Gourna (Fund 2011).
Một số hình ảnh về dự án New Gourna trong cuốn sách:
Hình 2-3. Nhà ở của nông dân: mặt đứng và mặt bằng mái (Fathy 1973)
Hình 4. Mặt bằng của một trường tiểu học dành cho nam (Fathy 1973)
Hình 5. Sân trong của một trường tiểu học dành cho nam (Fathy 1973)
Hình 6. Mái vòm một khu chợ (Fathy 1973)
Câu chuyện về New Gourna chính là một bài học thực tế đáng suy ngẫm về cách tư duy và tiếp cận toàn diện trong các dự án kiến trúc xã hội với kinh phí hạn chế. Một dự án kiến trúc xã hội không thể chỉ giải quyết các vấn đề về kiến trúc mà còn phải giải đáp các bài toán về xã hội-kinh tế và định hướng phát triển của một cộng đồng gắn liền với hình thái kiến trúc đó. Bản dịch này bao gồm 3 chương trong cuốn sách Kiến trúc cho người nghèo (Architecture for the Poor) về những quan điểm và suy ngẫm của Hassan Fathy trước sự xói mòn của bản sắc dân tộc và trách nhiệm của kiến trúc sư trong kiến trúc hiện đại Ai Cập.
Đặc tính kiến trúc (Architectural Character)
Mỗi một người khi thiết kế kiến trúc thường để lại dấu ấn cá nhân như cách họ thể hiện bản thân thông qua ngôn ngữ, trang phục và những sinh hoạt truyền thống trong cộng đồng. Trước khi những ranh giới văn hóa (cultural frontiers), bị xóa nhòa vào thế kỷ trước, những hình khối và chi tiết kiến trúc đã từng mang đậm dấu ấn địa phương của các vùng miền trên khắp thế giới, và kiến trúc bản địa là đứa con tinh thần đẹp đẽ của một cuộc hôn nhân hạnh phúc giữa trí tưởng tượng của con người và nhu cầu sống thực tế ở những vùng nông thôn đó. Tôi không muốn cũng như không có thẩm quyền trong việc phỏng đoán những xu hướng thật sự cho phong cách của một quốc gia. Tôi chỉ muốn giả định một cách đơn giản rằng có một vài hình dạng kiến trúc nhất định khiến người ta đặc biệt hứng thú và họ tận dụng nó trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, đồng thời loại bỏ những chi tiết không phù hợp và thay vào đó bằng những hình khối, đường nét đa dạng phong phú, phản ánh một cách chân thật bản chất kiến trúc và thích ứng một cách hoàn hảo với môi trường địa phương nơi đó. Không ai có thể nhầm lẫn đường cong của một mái vòm Ba Tư với đường cong của một mái vòm kiểu Syrian hoặc Ma-rốc hay Ai Cập. Không ai có thể gặp khó khăn trong việc nhận ra sự tương đồng giữa những đường cong với những dấu hiệu đặc trưng của những mái vòm, những chiếc lọ và vành khăn quấn đầu turban. Tương tự, không ai có thể cảm thấy dễ chịu khi quan sát những công trình kiến trúc này bị cấy ghép vào một môi trường hoàn toàn xa lạ.
Kiến trúc Ai Cập hiện đại vẫn chưa có phong cách bản địa. Sự thiếu vắng những dấu hiệu đặc trưng: những ngôi nhà của người giàu và người nghèo đều có hình thức tương đồng, mất đi dấu ấn riêng và không mang bản sắc của Ai Cập. Truyền thống đang bị mất đi và chúng ta dường như không còn liên hệ với khỏi quá khứ từ lúc mà Mohamed Ali cắt đứt cổ họng của người Mameluke cuối cùng. Thực tế cho thấy, có một sự đố kị giữa những người tin rằng dân tộc Copts là hậu duệ trực tiếp của người Ai Cập cổ đại, với những người tin rằng phong cách Ả Rập sẽ là nguồn cảm hứng cho kiến trúc đương đại Ai Cập. Đã có một nỗ lực mang tính chính trị trong việc hòa giải hai quan điểm này: khi Osman Moharam Pasha, Bộ trưởng Công trình công cộng đề nghị chia Ai Cập làm đôi trong đó Thượng Ai Cập sẽ được giao cho người Copts để phát triển theo phong cách thời Pharaoh trong khi Hạ Ai Cập nên giao cho người Hồi giáo để họ phát triển kiến trúc của họ theo đúng tinh thần Ả Rập!
Câu chuyện này thể hiện hai điều. Điều thứ nhất là có một sự thật đáng khích lệ rằng mọi người thật sự ý thức và mong muốn giải quyết sự mơ hồ về mặt văn hóa này trong kiến trúc của chúng ta. Điều thứ hai mang tính hạn chế hơn là dường như sự bối rối này chỉ được nhìn nhận như một vấn đề về mặt phong cách, và phong cách ở đây được xem như một lớp vỏ hoàn thiện có thể gắn vào bất cứ công trình kiến trúc nào hay thậm chí gỡ bỏ và thay thế nếu cần thiết. Những kiến trúc sư hiện đại của Ai Cập tin rằng những đền thờ với những tháp môn- pylon và gờ chỉ trang trí hình lòng máng (cavetto cornice) là đặc trưng của kiến trúc Ai Cập cổ đại còn kiến trúc Ả Rập truyền thống được đại diện bởi hình ảnh những quần thể cột thạch nhũ. Thế nhưng sự thật là kiến trúc Ai Cập dân dụng cổ đại khác nhiều với kiến trúc đền thờ, cũng như ở Ả Rập, kiến trúc dân dụng cổ đại thì không giống với kiến trúc đền thờ hồi giáo. Những công trình dân dụng Ai Cập cổ đại như nhà ở là những kết cấu nhẹ, đơn giản với những đường nét gọn gàng như những ngôi nhà được thiết kế theo phong cách hiện đại. Thế nhưng trong trường học, việc nghiên cứu về lịch sử kiến trúc không chú trọng vào những công trình dân dụng, sinh viên được nghiên cứu những thời kỳ phát triển của kiến trúc thông qua những phong cách, những đặc trưng nổi bật như tháp môn-pylon và chi tiết quần thể cột. Do đó, các kiến trúc sư mới ra trường thường cho rằng tất cả mọi thứ tồn tại đều thuộc về phong cách và tưởng tượng rằng họ có thể thay đổi phong cách của một công trình như thay một chiếc áo. Chính những suy nghĩ này đã dẫn đến việc một vài kiến trúc sư đã mạnh tay phá bỏ lối vào lớp học ở một trường học ở Gourna bằng cách chuyển đổi hành lang mái vòm hiện hữu thành một ô cửa theo phong cách đền thờ Ai Cập cổ đại và được trang trí bởi những gờ chỉ trang trí hình lòng máng. Dường như người ta vẫn chưa hiểu rằng kiến trúc không thể tồn tại mà tách rời khỏi truyền thống sinh hoạt và lối kiến trúc truyền thống đó đã hoàn toàn chết ở Ai Cập ngày nay.
Như một hệ quả trực tiếp từ việc thiếu vắng truyền thống, những thành phố và làng mạc của chúng ta đang dần trở nên xấu xí hơn. Mỗi một công trình mới được xây dựng chỉ khiến sự xấu xí này ngày một trầm trọng hơn và mọi nỗ lực cố gắng khắc phục đều chỉ càng nhấn mạnh sự thô kệch này rõ ràng hơn.
Đặc biệt ở những khu vực ngoại ô của những tỉnh lẻ, nơi những công trình mới đang dần lan rộng, thiết kế thô kệch của những ngôi nhà được lộ rõ thông qua sự thi công cẩu thả, những khối hình hộp chật chội với nhiều kích thước khác nhau theo cùng một phong cách được sao chép theo một cách cẩu thả từ những khu đô thị, dù chưa hoàn thiện nhưng đã bắt đầu xuống cấp. Trong những khu dân cư tồi tệ này, nhu cầu được thể hiện bản thân và hiện đại hóa bản thân khiến người chủ nhà sẵn sàng chi tiền cho những thiết kế lòe loẹt kiểu đô thị trong khi vẫn đang chật vật với không gian sống xung quanh và phủ nhận lợi ích thực tế của sự thủ công truyền thống. Chính thái độ này đã khiến những ngôi nhà ngày càng trở nên chật chội và phơi mặt ra đường chính với ban công khô khốc của nhà hàng xóm, trong khi lẽ ra nếu người chủ nhà thông minh hơn, họ hoàn toàn có thể tận dụng một kiểu nhà (có lẽ là duy nhất) phù hợp với khu vực này: nhà có sân sau nơi mà họ có được khoảng không và sự riêng tư. Đáng buồn thay, hình thái kiến trúc nông thôn này đối với những người nông dân lại chính là một hình mẫu cho sự hiện đại và nó ngày càng được lan rộng trong các làng mạc. Ở vùng ngoại ô Cairo hay Benha, chúng ta có thể nhìn thấy số phận trong tương lai của Gharb Aswan.
Để nịnh bợ khách hàng và thuyết phục họ rằng đó là sự tinh tế và hiện đại, người thợ hồ trong làng đã bắt đầu thí nghiệm cái phong cách mà anh ta chỉ được quan sát một cách gián tiếp và với những vật liệu mà anh không có đủ kiến thức để xử lý. Người thợ hồ thường bỏ qua các hướng dẫn an toàn truyền thống và sáng tạo nên một kiểu “kiến trúc của kiến trúc sư” (architects’architecture) mà không hề có kiến thức cũng như kinh nghiệm của một kiến trúc sư. Kết quả là một ngôi nhà với toàn những sai sót và không hề có một ưu điểm nào của một tác phẩm kiến trúc thực thụ.
Kết quả là những ngôi nhà trong những khu dân cư nghèo được thiết kế bằng việc sao chép, cóp nhặt chi tiết từ những công trình thời thượng của kiến trúc châu Âu với kinh phí eo hẹp sẽ lan tỏa khắp các vùng nông thôn nghèo và làng quê và đầu độc dần truyền thống thực thụ nơi này chỉ sau một vài năm.
Vì thế một sự nghiên cứu thấu đáo và khoa học là thực sự cấp bách đối với tình trạng nghiêm trọng này nếu chúng ta muốn chống lại xu hướng kiến trúc dân dụng thô kệch và kém hiệu quả ở những vùng nông thôn.
Đôi khi tôi cảm thấy tuyệt vọng vì quy mô của vấn đề và cho rằng điều đó không thể giải quyết được như thể một sự bất lực trước số phận. Tôi đã từng chấp nhận cảm giác vô vọng, buồn chán và đau đáu trước những thứ đang dần trở thành một phần của chúng tôi và của đất nước tôi. Thế nhưng khi tôi có cơ hội thử thách bản thân mình với một dự án thực tế ở Gourna, tôi đã vực dậy và bắt đầu tư duy một cách thiết thực hơn về vấn đề này.
Mùa đông năm 2017, tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm giác câm lặng khi lần đầu tiên bước chân vào nhà hỏa thiêu Baumschulenweg ở Berlin, Đức. Đây vốn dĩ là một trong những công trình yêu thích của tôi từ thời sinh viên. Nhưng chỉ khi đến tận nơi, tự mình đắm chìm vào cái không gian mênh mông tĩnh lặng của một rừng cột bê tông cao vút “xuyên thủng” trần và thứ ánh sáng xanh trầm mặc- một sự hòa trộn giữa màu của vật liệu nhân tạo và màu của ánh sáng tự nhiên, tôi mới có thể hiểu được giá trị tinh thần và cảm được vẻ đẹp chân thực của không gian này.
Hình 1. Nhà hỏa thiêu Baumschulenweg ở Berlin, Đức(nguồn: Archdaily)
Trong suốt 5 năm học tại Việt Nam, tôi luôn tự hỏi tại sao giá trị của một đồ án thiết kế nội thất luôn được đánh giá thông qua các yếu tố hữu hình và các giá trị ngắn hạn, vậy còn cảm xúc và trải nghiệm của con người khi sử dụng không gian ấy?
Đến cuối cùng thì đâu là giá trị cốt lõi của một không gian nội thất khi không gian bên trong (inside space), nơi tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với con người và hoạt động hằng ngày của họ nhưng lại không thể gợi lên cảm xúc và tồn tại trong kí ức của người sử dụng?
Lời giải cho những câu hỏi này bắt đầu được định hình từ cái khoảnh khắc mà tôi bước vào nhà hỏa thiêu năm đó và dần trở nên rõ ràng hơn khi tôi đọc được những bài tiểu luận của kiến trúc sư người Phần Lan- Juhani Pallasmaa về mối liên hệ giữa kiến trúc với ý nghĩa của sự tồn tại con người thông qua các trải nghiệm không gian và khái niệm Hiện tượng luận (Phenomenology) trong kiến trúc.
Hình 2. Bìa quyển sách The eyes of the skin (Juhani Pallasmaa)
Đôi mắt của Làn da (The Eyes of the Skin), được xuất bản lần đầu vào năm 1996, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Juhani Pallasmaa và cũng là một cuốn sách kinh điển trong giảng dạy lí luận kiến trúc. Cuốn sách đặt ra những câu hỏi cơ bản nhất về nguồn gốc, quá trình phát triển và hệ quả tất yếu của sự thống trị của thị giác so với 4 giác quan còn lại trong cảm thụ nghệ thuật nói chung và đặc biệt trong thiết kế kiến trúc nói riêng. Juhani cho rằng việc đè nén những giác quan khác đã khiến khả năng kết nối tinh thần giữa con người với không gian trở nên chai sạn. Ý tưởng này cũng được thể hiện rất rõ thông qua một loạt những câu hỏi được đặt ra trong phần mở đầu ở một bài tiểu luận khác của Juhani Pallasmaa, Hình thái của cảm xúc- Một góc nhìn về Hiện tượng luận trong kiến trúc (The geometry of feeling- A look at the phenomenology of architecture) (Frampton 1992):
“Why do so very few modern buildings appeal to our feelings, when almost any anonymous house in an old town or the most unpretentious farm outbuilding gives us a sense of familiarity and pleasure? Why is that the stone foundations we discover in an overgrown meadow, a broken down barn or an abandoned boat house can arouse our imagination, while our own houses seem to stifle and smoother our daydream? The buildings of our own time may arouse our curiosity with their daring or inventiveness, but they hardly give us any sense of the meaning of our world or our own existence”
“Vì sao có rất ít những công trình hiện đại có thể khơi gợi cảm xúc của chúng ta, trong khi gần như bất kì một ngôi nhà vô danh nào ở trong một thị trấn cũ hay một nông trại khiêm tốn ngoài trời đều có thể đem đến cho chúng ta một cảm giác thân thuộc và thoải mái? Tại sao những cái nền đá mà chúng ta tìm thấy ở những đồng cỏ um tùm, một cái kho thóc đổ nát hay một cái nhà nổi bỏ hoang đều có thể kích thích trí tưởng tượng của con người trong khi chính những ngôi nhà mà ta đang ở lại bóp chết sự mơ mộng của chúng ta? Những công trình xây dựng trong thời đại ngày nay có thể khơi dậy sự tò mò ở con người nhờ sự sáng tạo hấp dẫn nhưng chúng lại khó lòng đem đến cho chúng ta bất kì ý nghĩa nào về thế giới này cũng như sự tồn tại của chính chúng ta.”
Đây bản dịch của chương đầu tiên trong cuốn sách với hy vọng giới thiệu một nguồn thông tin hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Thị giác và Kiến thức
Trong văn hóa phương Tây, tầm nhìn (sight) vẫn luôn được đánh giá là một giác quan nổi bật nhất, và bản thân khái niệm này cũng mang ý nghĩa của “sự nhìn thấy” (seeing). Trong tư tưởng Hy Lạp cổ điển, sự chắc chắn (certainty) được dựa trên tầm nhìn (vision) và sự nhìn thấy (visibility). “Đôi mắt là bằng chứng xác thực hơn đôi tai”, như Heraclitus đã viết trong một trong những bản nháp của ông. Còn Plato thì công nhận tầm nhìn như một món quà vĩ đại nhất của loài người và ông khẳng định rằng những vũ trụ có đạo đức (ethical universals) thì phải được tiếp cận thông qua “đôi mắt của trí não” (the mind’s eyes). Aristotle, tương tự, cũng cho rằng thị giác là một trong những giác quan quan trọng nhất bởi vì nó rất gần với trí tuệ nhờ vào sự phi vật chất một cách tương đối của những gì nó biết.
Sau người Hy Lạp, những bài viết triết học trong mọi thời kỳ đều chứa đầy những ẩn dụ về thị giác tới mức kiến thức đã được đồng nhất với một tầm nhìn rõ ràng (clear vision) và ánh sáng được xem như một phép ẩn dụ của chân lý. Aquinas thậm chí đã ứng dụng khái niệm của sự nhìn thấy vào những giác quan khác cũng như vào khả năng nhận thức của trí tuệ (intellectual cognition)
Tác động của tầm nhìn lên triết học đã được tổng kết rất hay bởi Peter Sloterdijk: “Đôi mắt là một nguyên mẫu sinh học của triết học. Điều bí ẩn của chúng là chúng không chỉ có thể nhìn mà cũng có thể nhận thức được sự nhìn của chính nó. Điều này khiến chúng trở nên nổi bật hơn so với những bộ phận nhận thức khác của cơ thể. Một cái hay của tư duy triết học chính là ở sự phản xạ của mắt (eye reflex), sự biện chứng của mắt (eye dialectic), tự nhìn thấy chính mình.” Trong suốt thời kỳ Phục Hưng, 5 giác quan được quan sát để hình thành một hệ thống thứ bậc của các giác quan, từ thị giác ở vị trí cao nhất xuống dần đến xúc giác. Hệ thống các giác quan thời kì Phục Hưng được liên hệ với hình ảnh cơ thể của vũ trụ (cosmic body); thị giác được liên hệ với lửa và ánh sáng, thính giác với không khí, khứu giác với không khí, vị giác với nước và xúc giác với đất.
Việc phát minh ra những bản vẽ phối cảnh đã khiến đôi mắt trở thành trung tâm của thế giới nhận thức cũng như khái niệm của bản thể. Bản vẽ phối cảnh (perspectival representation) đã tự thân nó trở thành một hình thức biểu tượng của không chỉ sự miêu tả mà còn là cơ sở của sự nhận thức.
Hình 3. Tranh vẽ của Nicolas Ledoux, một kiến trúc sư với nhiều tranh vẽ thể hiện rõ vị trí lấy thi giác làm trung tâm của nhận thức (Pallasmaa 2012)
Không thể phủ nhận rằng chính nền văn hóa công nghệ của chúng ta đã khiến các giác quan bị phân hóa ngày một sâu sắc hơn. Thị giác và thính giác ngày nay trở thành những giác quan đặc quyền của xã hội (privileged sociable sense), trong khi 3 giác quan khác bị xem như những giác quan sơ khai còn sót lại (archaic sensory remnants) chỉ mang chức năng của cá thể và chúng thường bị đèn nén bởi những những nguyên tắc xã hội. Chỉ những cảm giác như sự sung sướng của khứu giác đến từ một món ăn, mùi hương của những bông hoa hay sự phản ứng với nhiệt độ có thể gây được sự chú ý của cộng đồng dựa trên những điều lệ xã hội lấy thị giác làm trung tâm (ocularcentric) và bị ám ảnh bởi sự sạch sẽ.
Sự thống trị của thị giác so với những giác quan khác và hệ quả tất yếu (của nó) tạo ra trong nhận thức đã được quan sát bởi nhiều nhà triết gia. Một bộ sưu tập những bài luận triết học với tiêu đề Sự Hiện Đại và Sự Thống Trịcủa Thị Giác (Modernity and The Hegemony of Vision) cho rằng “bắt đầu từ người Hy Lạp cổ đại, văn hóa phương Tây đã bị thống trị bởi một hình mẫu lấy thị giác làm trung tâm (ocularcentric paradigm), được tạo ra bởi thị giác, và xem thị giác như trọng tâm trong sự diễn dịch kiến thức, chân lý và thực tiễn.” Cuốn sách đáng suy ngẫm này đã phân tích sự liên kết mang tính lịch sử giữa thị giác và tri thức, thị giác và bản thể học (ontology), thị giác và sức mạnh, thị giác và đạo đức.
Như một hình mẫu lấy thị giác làm trung tâm trong mối quan hệ của chúng ta với thế giới và với khái niệm về tri thức, tính tri thức luận đặc quyền của thị giác (the epistemological privileging of vision) đã được xác nhận bởi những triết gia, việc khảo sát một cách thấu đáo vai trò của thị giác trong mối quan hệ với những giác quan khác trong tầm hiểu biết và thực tiễn của nghệ thuật kiến trúc là rất quan trọng. Kiến trúc, cũng như với tất cả những môn nghệ thuật khác, luôn phải đối chất từ gốc rễ với những câu hỏi liên quan tới sự tồn tại của loài người trong không gian và thời gian, và đồng thời nó (kiến trúc) cũng biểu hiện và liên quan tới sự tồn tại của con người trong thế giới này. Kiến trúc được gắn kết một cách sâu sắc với những câu hỏi mang tính triết lý (metaphysical questions) về bản ngã và thế giới, cái nội tại (interiority) và cái ngoại biên (exteriority), thời gian (time) và thời hạn (duration), sự sống và cái chết.
“Sự thực hành về thẩm mỹ và văn hóa luôn nhạy cảm một cách kì lạ nhưng chính xác với sự thay đổi không ngừng trong trải nghiệm về không gian và thời gian. Đó là vì chúng (sự thực hành) bao gồm sự cấu thành của những miêu tả về mặt không gian (spatial representation) cũng như các hiện vật (artefact) mang tính không gian nằm ngoài dòng chảy trải nghiệm của con người,” David Harvey viết.
Kiến trúc là phương tiện cơ bản nhất để kết nối chúng ta với không gian và thời gian và khiến cho những chiều kích thước này gần hơn với tỉ lệ con người (a human measure). Nó địa phương hóa những không gian vô tận và thời gian vô biên và khiến chúng trở nên dễ chấp nhận, dễ cư ngụ và dễ thấu hiểu hơn bởi loài người. Như một hệ quả của sự phụ thuộc lẫn nhau giữa không gian và thời gian, sự biện chứng của những không gian bên trong và bên ngoài, lý tính (physical) và tinh thần (spiritual), vật chất (material) và tinh thần (mental), những ưu tiên trong nhận thức hoặc vô thức về các giác quan cũng như vai trò và những tương tác mang tính tương đối, đều có một tác động sâu sắc lên bản chất của các môn nghệ thuật và kiến trúc.
David Michael Levin thúc đẩy những phê bình mang tính triết lý về sự thống trị của đôi mắt bằng những từ sau:
“Tôi cho rằng nó hoàn toàn phù hợp để thách thức sự bá chủ của thị giác- chủ nghĩa thị giác tập trung trong văn hóa của chúng ta. Và tôi cho rằng chúng ta nên kiểm tra một cách hết sức cẩn thận và thấu đáo tính chất vượt trội của thị giác ngày nay trong thế giới của chúng ta. Chúng ta rất cần một sự chuẩn đoán về bệnh lý tâm lý học xã hội (psychological pathology) của việc nhìn mỗi ngày- một cách hiểu phản biện về chính bản thân chúng ta như một đối tượng được nhìn thấy’
Levin chỉ ra rằng động lực tự thân, sự bá chủ của thị giác cùng sự “ám ảnh của những luật lệ gia trưởng” đã đeo bám văn hóa trọng thị giác của chúng ta:
“ Có một sự khao khát quyền lực rất to lớn trong thị giác. Có một khuynh hướng rất mạnh mẽ trong thị giác để nắm bắt và chiếm giữ, để cụ thể hóa và tổng hòa, một khuynh hướng thống trị, bảo đảm và kiểm soát, điều mà cuối cùng, nhờ được hỗ trợ một cách mạnh mẽ và được xem như một sự thống trị hiển nhiên trong văn hóa của chúng ta và trong những diễn giải triết học, đang tạo ra bằng cách nắm giữ sự duy lí cốt lõi trong văn hóa và những đặc tính kĩ thuật trong xã hội, một lý thuyết siêu hình học trọng thị giác về sự tồn tại.”
Tôi tin rằng rất nhiều khía cạnh trong bênh lý của kiến trúc hằng ngày ngày nay có thể được hiểu một cách tương tự, thông qua sự phân tích về tri thức luận của các giác quan và một sự phê bình về khuynh hướng thị giác của văn hóa chúng ta nói chung và của kiến trúc nói riêng. Sự phi con người trong kiến trúc đương đại và trong các thành phố có thể hiểu như một hệ quả của việc chối bỏ cơ thể và các giác quan, cùng một sự bất cân đối trong hệ thống cảm nhận của chúng ta. Ví dụ như những trải nghiệm không ngừng về sự xa lạ, tách biệt và cô đơn trong xã hội công nghệ ngày nay có thể liên hệ tới một số bệnh lý cụ thể về các giác quan. Nó đáng suy ngẫm rằng sự xa lạ hóa và tách biệt hóa thường được gợi lên bởi những hình thức kiến trúc công nghệ tiên tiến, ví dụ như bênh viện hay sân bay.
Sự thống trị của đôi mắt và sự đè nén những giác quan khác sẽ đẩy con người vào sự thờ ơ (detachment), cô lập (isolation) và sự bên rìa (exteriority). Nghệ thuật của đôi mắt chắc chắn đã sản sinh ra những kết cấu (kiến trúc) hùng vĩ và sâu sắc, nhưng nó đã không thể khiến con người gắn kết sâu sắc hơn với thế giới này. Có một sự thật rằng sự biểu hiện của chủ nghĩa hiện đại nói chung đã không thể, về cơ bản, chạm tới khẩu vị và những giá trị chung (của con người), có lẽ bởi vì sự tập trung về nhận thức một cách đơn chiều và mang nặng tính hình thức. Những thiết kế hiện đại nói chung đã che chở cho lý trí và đôi mắt nhưng ngược lại nó đã bỏ rơi cơ thể và những giác quan khác cũng như (cách con người đối xử với) kí ức, trí tưởng tượng và những giấc mơ.
Modernist design at large has housed the intellect and the eye, but it has left the body and the other senses, as well as our memories, imagination and dreams, homeless.
Người dịch: Lipv
Nguồn tham khảo:
Frampton, K. (1992) Modern architecture: A critical history, 3rd ed., United Kingdom: Thames & Hudson
Pallasmaa, J. (2012) The eyes of the skin, 3rd ed., United Kingdom: John Wiley & Sons Ltd